banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn tạm ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Bảo-hòa liên kết mạng Vũ trụ

Chương-K-Liên

Bài viết tôi dựa trên những dữ kiện khoa học và quan niệm từ xưa:
-Mọi vật bắt ₫ầu từ độ lạnh âm ,₫ó là 0° K .
-Năng lượng trong vật chất tối ở 0° K .
-Năng lượng tối sinh ra từ vật chất tối có nhiệt ₫ộ > 2,7° K .
-Vũ trụ có 3 vùng nhiệt ₫ộ cố ₫ịnh:
1-Bức xạ Phông Vũ Trụ 2,7° K nằm giữa 2 vùng vũ trụ 0° K .
2-Độ đóng băng H2O+NH3+CH4 nằm giữa đóng băng He2+6.H2 .
3-Độ nóng "Vành nhật hoa" nằm giữa nhiệt độ Mặt trời và không khí quanh Mặt trời .
-Có 2 bức xạ đặc biệt:
1-Bức xạ sinh ra từ khối lạnh 0° K tấp vào độ đóng băng He2+6.H2 sinh ra nguồn Lổ Đen.
2-Bức xạ  sinh ra từ độ đóng băng He2+6.H2 tấp vào 3.000° K Mặt trời sinh ra Thái Dương Hệ .
-Có 2 từ trường trong Thái Dương Hệ 
1-Từ trường từ Mặt trời có công năng chuyển năng lượng dương đến Jupiter .
2-Từ trường từ Jupiter có công năng chuyển năng lượng âm vào Mặt trời .Từ những nhận xét này nên có quan niệm :"Trong độ âm ban đầu của vũ trụ có 2 nhiệt độ "0°K và nhiệt độ tại điểm trung tâm là độ đóng băng He2+6.H2 .
Nếu chúng ta cùng suy luận trên quan điểm này chúng ta sẽ thấy:

Vũ trụ trong quan niệm khoa học gồm có :
*Năng lượng tối có khả năng làm tăng tốc độ sự dãn nở vô tận của Vũ trụ.
*Vật chất tối, tuy không nhìn thấy, nhưng biểu hiện bằng tác động của trường hấp dẫn rất mạnh, nên có khả năng tập hợp các thiên hà thành từng chòm và làm trệch hướng những tia ánh sáng, do đó làm biến dạng hình ảnh thu được cuả những thiên hà.
*Vũ trụ bao trùm bởi bầu "Bức xạ" dầy đặc được gọi "Bức xạ Phông Vũ Trụ" có nhiệt độ cố định 2,7° K nằm giữa vũ trụ bên ngoài và Vũ trụ bên trong có cùng nhiệt độ 0° K .
"Vật chất tối" là nguyên tử vô hình  từ ngoài "Bức xạ Phông Vu Trụ" vào, trong nhiệt độ thích hợp nhận thêm năng lượng (năng lượng dương từ Vụ Nổ Lớn) electron xích gần nhân hơn nên hiện ra hình dạng ,bởi kết nối lượng tử không bền, electron lại cách xa nhân sinh ra "vật ảo" ,electron như con thoi lúc rời lúc hợp với nhân :
-Lúc "ẩn" là lúc electron xa nhân thì phát ra 68,3% năng lượng (tổng năng lượng tối phát ra từ vật ảoi).
-Lúc "hiện hình" là lúc electron lại gần nhân thì nhận về 26,8% năng lượng (tổng năng lượng thu vào từ vật ảo).
-Còn lại 5% là tổng năng lượng vật thể vừa thành hình từ "vật ảo" ,các Tinh cầu, dãy Thiên hà và tất cả sinh vật trên Địa cầu.
-Tỷ lệ bách phân này là tổng năng lượng ở 0° K từ vật thể di động trong Vũ trụ được ghi nhận bởi máy Big bang LHC.
-"Vật chất tối" và "năng lượng tối"  không hình dạng nên máy Big Bang LHC không ghi nhận được ,vì LHC chỉ ghi nhận nhiệt "bức xạ" từ các vật hữu hình kể cả "vật ảo", 5% năng lượng trong vật thể là kết quả sau nhiều lần "vật ảo" phóng ra năng lượng,đây là "năng lượng tối" trong Vũ trụ, vậy 5% năng lượng đó gồm 4,9% "năng lượng tối" cho mỗi vật thể và 0,1% năng lượng tối từ bên ngoài thấm thấu vào để cùng liên kết mạng Vũ trụ.
Nói rõ hơn:Mổi "vật chất tối" để trở thành "vật thật" thì đã phóng ra 95,1% "năng lượng tối", chỉ còn lại 4,9% "năng lượng tối" trong mổi "vật thật" .
"Năng lượng tối" có khả năng làm tăng sự dãn nở các nguyên tử và giúp bảo-hòa trở thành những vật thể gắn liền chặc chẽ hơn,do bởi "năng lượng tối" sinh ra từ "vật chất tối" nên có khuynh hướng trở về trong nguyên tử ,bởi thế trong tiến trình bảo-hòa vật thể trong Vũ trụ chỉ có nguyên tử khí ở dạng phân tử ,nên "năng lượng tối" là bảo-hòa duy nhất để kết liền với các vật thể bên ngoài .
-Những bảo-hòa có trọng khối nhỏ dễ trở thành "năng lượng âm" trợ tiếp cho những bảo-hòa khác kết thành những bảo-hòa có trọng khối lớn dần rồi trở thành Thiên hà , tinh cầu và thiên thạch .
Ban đầu Vũ trụ do sự thành hình "vật ảo" từ "vật chất tối" mà sinh ra "năng lượng tối" và "năng lượng âm" :
-"năng lượng tối" là năng lượng sinh ra từ "vật chất tối" .
-"năng lượng âm là năng lượng được kết thành bởi những bảo-hòa có trọng khối nhỏ .
Những năng lượng này phát sinh tạo ra những bức xạ khác nhau được "Bức xạ Phông Vũ Trụ" ghi nhận, cả bức xạ phát từ ánh sáng Mặt trời nóng 3.000° K (thời gian này chưa có Hệ Mặt Trời) va chạm vào tinh cầu cũng được ghi nhận với cường ₫ộ bức xạ khác với bức xạ từ0° K.
-Những bảo-hòa có trọng khối lớn thì bay chậm hơn, nên dễ kết thành Tinh tú và sao băng trong nhiệt độ lạnh hơn độ đóng băng bảo-hòa He2+6.H2 .
-Độ lạnh bảo-hòa He2+6.H2 có thể là nhiệt độ khối lạnh khổng lồ tấp vào Mặt trời 3.000° K mà sinh ra Thái Dương Hệ .
-Bức xạ sinh ra trong sự va chạm này mang 9 Hành tinh vào vùng nhiệt độ thích hợp tạo thành 9 qũy đạo khác nhau .
-Những bảo hòa He2+6.H2 trên Pluto, Neptune,,Uranus trở thành băng đá "H2O+NH3+CH4" do bởi :
- "H2O+NH3+CH4" là phân tử nước nên độ đóng băng ở 270°K đến 273°K (-3°C đến 0°C ).Đây là nhiệt độ bảo-hòa giữa Jupiter-Saturn và bên ngoài Pluto có cùng độ lạnh He2+6.H2 .Sự thành hình này gióng như "Bức xạ Phông Vũ Trụ 2,7°K" là nhiệt độ bảo-hòa giữa vũ trụ bên ngoài và bên trong "Bức xạ Phông Vũ Trụ" có cùng độ lạnh 0°K .
-Năng lượng tối còn là một liên kết giữa các hành tinh trong Vũ trụ, vì các hành tinh di chuyển trong  qũy đạo nhiệt độ cố định, do sự thấm thấu không ngừng từ "năng lượng tối" vào khí bảo hộ (KBH) thành mạng kết nối định vị các Hành tinh .
-Sự thấm thấu này tạo lớp KBH nhận về "năng lượng tối" sẽ dối dào hơn 5% theo thời gian, KBH có thể trở thành "siêu năng lượng" khi trọng khối các nguyên tử chứa đầy năng lượng tối trở lại .Những hiện tượng này cho thấy "năng lượng tối" đã tạo ra bảo-hòa mạng liên kết các hành tinh .
Qua sự trình bày trên chúng ta nhận thấy :"mọi sinh vật trên Địa cầu đều có 4,9% "năng lượng tối" trong toàn năng lượng chính mình và 0,1% "năng lượng tối" từ Vũ trụ để cân bằng năng lượng trong cơ thể chúng ta.
Các tế bào đều được sinh ra từ trong cái lạnh của "năng lượng tối" và được tăng trưởng nhờ "năng lượng dương" từ thức ăn cung cấp, cũng như các "vật thể tối ở 0°K được tạo hình nhờ ở "năng lượng dương" từ những lần "Nổ" trong Vũ trụ .
Độ lạnh đó chúng ta đều thấy từ thể xác không linh hồn ,4,9% "năng lượng tối" này theo suốt cuộc sống của đời người ,cũng như tất cả các vật thể khác đều có độ lạnh âm tương tự tử "năng lượng tối", hệ qủa này là một "Bảo-hòa liên kết Vũ trụ" .

A.-Bảo-hòa năng lượng tối và nguyên tử khí.
Bảo-hòa đã được dẩn chứng qua bài viết về Thái-dương-hệ của Bà Lưu-lệ-Hằng và thầy Davis Jewitt cho thấy:
Lớp băng đá He2+6.H2 ở Jupiter-Saturn và lớp băng đá NH3+H2O+CH4 ở  Uranus-Neptune-Pluto có dạng bảo-hòa :
-Bảo-hòa He2+6.H2 có phân tử lượng m=3 .
-Bảo-hòa H2O+(NH3+CH4 ) có  m=18 .
Đây là chuyện nghịch lý trong khoa học mà ai cũng nhận ra được, nhưng không nghi vấn và không lời giãi thích, vì chúng ta hoàn toàn tin ở khoa học là chân chính.
Nghịch lý vì H2O , NH3 và CH4 là vật thể không có trong Mặt trời. Mặt trời chỉ có những nguyên tử oxygen nitrogen carbon helium và hydrogen.
Như thế lúc ban đầu Uranus Neptune và Pluto  chỉ có bảo-hòa M(O2+30H2) , M(N2+26.H2) , M(C+10H2) và M(He2+6.H2) cùng có m=3 .
vì O2 , N2 và C đều nặng hơn He2 và H2 nên bảo-hòa He2+6.H2 bảo phủ bên ngoài các bảo-hòa trên theo lớp nặng bên trong nhẹ bên ngoài, những bảo-hòa bên trong bị ảnh hưởng độ lạnh M(He2+6.H2) trở thành:
 O2+30.H2 thành 2.H2O+26.H2
 N2+26.H2 thành 2.NH3+23.H2
 C+10.H2 thành CH4+8.H2
Ba phân tử NH3,H2O,CH4 kết thành bảo-hòa H2O+(NH3+CH4) có m=18
Phân tử m=18 là nước ,đóng băng ở 0°C đến 3°C ,thể tích lớn nhất của băng nước ở -4°C làm băng đá bảo-hòa He+6.H2 vở tung và những hydrogen (23.H2+26.H2+8.H2+6.H2=63.H2) trở thành Khí bảo hộ (KBH) của  Uranus Neptune và Pluto.
Như thế 5 hành tinh băng đá bên ngoài đều có KBH hydrogen (H2) .
Hiện tượng này tương tự như Địa cầu, bên ngoài bảo-hòa O2+4.N2 là vùng ozone toàn là N2.
Từ suy luận này chúng ta  thấy: các hành tinh trong Thái-dương-Hệ đều có lớp KBH bên  ngoài bầu không khí hành tinh đó (KBH là khí có phân tử lượng nhỏ) .
Như vậy:
Các Hành tinh trong Thái Dương Hệ đều có những KBH như sau :
-Sun : Ne2(neon) + 2.F2(flourine). KBH F2  (by LKC).
-Mercury : Ne2+2.F2.                   KBH F2   (by LKC)
-Venus : F2+6.O2 (oxygen).          KBH O2  (by LKC).
-Earth : O2+4.N2 (nitrogen).          KBH N2
-Moon : O2+24.He2 (helium).       KBH He2  (by LKC).
-Mars (hỏa tinh) : O2+24.He2        KBH He2  (by LKC).
-Jupiter (mộc tinh) : He2+6.H2.     KBH H2
-Saturn (thổ tinh) : He2+6.H2.      KBH H2
-Uranus (thiên-vương-tinh) : NH3+H2O+2.CH4. KBH H2
-Neptune (hải vương tinh) : NH3+H2O+2.CH4.   KBH H2
-Pluto (diêm-vương-tinh) : NH3+H2O+2.CH4.    KBH H2
Những KBH liên kết với bầu khí quyển hành tinh và năng lượng tối không ngừng thấm thấu vào phục hồi năng lượng nguyên tử làm trọng khối phân tử trương phình gắn chặc vòng KBH .Bởi năng lượng tối rãi đầy khắp Vũ trụ nên làm thành mạng liên kết tất cả các tinh cầu với nhau .
Sự thấm thấu này sẽ làm "năng lượng tối" trong nguyên tử KBH cao hơn 5% so với vật thể khác .
Trong "Bản liệt kê các loại không khí cho từng hành" để chúng ta dễ nhận thấy :
1.-"không khí và KBH tạo thành bầu thủy tinh trong suốt làm phản chiếu ánh sáng từ Mặt trời đến, do đó các sao có ánh sáng .
2.-Không khí từ Địa cầu và Moon có sự tương quan :"áp suất không khí trên Mặt trăng bằng 1/6 áp suất không khí trên Địa cầu".
( 4.N2 trên Địa cầu so với 24.He2 trên Mặt trăng bằng 1/6 trong cùng thể tích O2),được xác nhận bởi Phi thuyền Apolo 11 năm 1969.
3.-Sự tương quan giữa "bức xạ" và "năng lượng tối" :
"Vật chất tối"  ở 0°K chứa đầy 100% "năng lượng tối" có khuynh hướng bám chặc vào "Bức xạ Phông Vũ Trụ 2,7°K ",khi "vật chất tối" vào bên trong Vũ trụ nhận được "năng lương dương" trở thành "vật ảo" thì phóng ra tương đối khoảng 41,5% "năng lượng tối" đồng thời sinh ra bức xạ, bức xạ chạy ra "Bức xạ Phông Vũ Trụ" và đẩy "vật ảo đi dần vào trung tâm Vũ trụ ,khi "vật chất tối" chỉ còn 5% "năng lượng tối" thì "vật ảo" trở thành vật thể thật trong nhiệt độ thích nghi và tiếp theo là những bảo-hòa vật thể mới xẩy ra .
Như thế giữa "năng lượng tối" trong vật thể và "bức xạ" tỷ lệ thuận với nhau, năng lượng tối trong vật thể vơi dần thì ảnh hưởng bức xạ yếu dần .
KBH liên tục nhận về "năng lượng tối " thì năng lượng lạnh trong nguyên tữ KBH sẽ cao hơn 5% năng lượng bảo-hòa, như thế lực hấp thu của KBH càng mạnh hơn. Khi các KBH nhận đầy đủ 100% "năng lượng tối " thì lớp KBH sẽ bay tự do có thể kéo theo hành tinh mình đang bảo hộ. Hiện tượng này như Sao chổi, sao rơi và thiên thạch (vật thể không có lớp không khí và KBH, không có ánh sáng) .
Những KBH quanh hành tinh đều được bảo-hòa bởi "Năng lượng tối" nên O2 tại Venus và H2 tại 5 hành tinh băng đá không thể cháy được, nên  O2 và H2 gặp nhau ở 2 cực bắc-nam Địa cầu, Moon và Mars tạo thành bảo-hòa O2+30H2 trong nhiệt độ  lạnh quanh năm,bảo-hòa O2+30H2 trở thành 2H2O + 26H2, nước đóng thành núi băng và H2 là khí duy nhất tiếp tục đi vào Mặt trời. Bởi lý do này thế giới báo động :"nếu nhiệt độ Địa cầu tăng thêm 2°C thì những núi băng đá ở 2 cực Địa cầu sẽ tan mà gây nạn nước biển tràn lấn vào lục địa trên Địa cầu.
Ngày 28/9/2015 các nhà khoa học Cơ quan không gian NASA  Hoa Kỳ phát hiện trên Mars cũng có  suối nước mặn, rõ ràng nhất trong mùa hè, cũng như trên Mặt trăng khoa học đã nhận có dòng nước mặn ngầm nằm dưới lòng đất  Mặt trăng, mà không thấy nước trên mặt đất ,điều này cũng dễ hiểu vì nhiệt độ sôi của nước ở Mặt trăng khoảng 15-16° C , bởi nhiệt độ ban ngày trên Mặt trăng cao hơn nhiệt độ ban ngày ở Địa cầu, do đó chúng ta không thấy nước trên  Mặt trăng mà chỉ có nước biển mặn,đây là nước muối bảo-hòa 7.NaCl+41.H2O".
Trong ngày 4/7/2016 phi thuyền Juno vừa phát hiện trên mặt trăng Europe/Jupiter có nước biển mặn, điều này xác nhân nước là do bảo-hòa O2+30.H2O tạo thành trong độ lạnh hơn -4° C .

B.- Bảo-hòa bức xạ trong Thái Dương Hệ.
 "Bức xạ Phông Vũ Trụ" .Nhiệt độ cố định 2,7° K là chứng tích của sự bảo-hòa nói lên :
-Dù "bức xạ" sinh ở nhiệt độ nào thì  cuối cùng vẩn trở về lại 2,7° K
-Nhiệt độ  sai biệt trên 2,7°C thì có bức xạ phát sinh.
-Nhiệt độ chênh lệch trong khoảng 2,7°C thì không có bức xạ.
-Vùng nhiệt độ lạnh "thấm thấu" vào vùng có nhiệt độ nóng hơn.
-Vùng lạnh có áp suất cao và  vùng nóng có áp suất thấp .
 Những sự kiện này là khoa học tự nhiên trên Địa cầu, như thế chuyển hóa của Vũ trụ cũng nằm trong ảnh hưởng chung cùng một quy luật ,các hành tinh trong Thái Dương Hệ phải có sự điều tiết đặc biệt liên đới cùng nhau trong ảnh hưởng về Bức xạ .
-Ngày 15/7/2015 vệ tinh New-Horizon phát hiện có Bức xạ mạnh quanh vùng Nhóm hành tinh Lùn .
-Ngày 04/7/2016 phi thuyền Juno cũng phát hiện Jupiter tự xoay chính mình  ngược chiều với các hành tinh khác, nên tạo ra từ trường rất mạnh và  Bức xạ xung quanh. Điều này cho chúng ta suy luận : "Mặt trời và Jupiter tự xoay chính mình thuận theo chiều quay kim đồng hồ.
-Jupiter là hành tinh lớn nhất trong Thái Dương Hệ , lớn gấp 1,300 lần Địa cầu và cách xa Mặt trời 5 lần hơn từ Mặt trời đến Địa cầu, có 67 vệ tinh gồm mặt trăng Europe...
-Vệ tinh Juno nặng 180 kg ,bay quanh Jupiter mất 14 ngày, nhưng không có nghĩa 1 ngày Jupiter bằng 14 ngày Địa cầu ,đây là thời gian tương đối Jupiter so với thời gian tuyệt đối ở Địa cầu, không là thời gian tự nhiên ,nó khác với quan điểm của người Trung-Hoa :" Jupiter tượng về "địa chi trong tử vi học.." chạy quanh Mặt trời 1 vòng bằng 12 vòng Địa cầu chạy quanh Mặt trời, sự so sánh này gần như là thời gian tuyệt đối. Từ sự nhận xét về Jupiter cho chúng ta thấy: Trong Thái Dương Hệ : Mercury, Venus , Địa cầu, Mars và Jupiter có cùng vận tốc di chuyển trên quỹ đạo của chúng và nhóm Saturn, Uranus, Neptune và Pluto chạy nhanh hơn có cùng vận tốc như Saturn ,hành tinh này trong tử vi tượng về "thiên can : giáp ất bính..."" chạy quanh Mặt trời 1 vòng bằng 10 vòng Địa cầu chạy quanh Mặt trời" . Quan niệm này có phần rõ ràng hơn về thời gian chuyển động các hành tinh Thái Dương Hệ.

C.- Tương quan giữa bức xạ và ánh sáng .
Nhìn lại quan niệm khoa học ngày nay :
 1.-Các nhà thiên văn ghi nhận: Trong Vũ trụ gồm có 68,3% là năng lượng tối và 26,8% là vật chất tối, còn lại 5% tổng số năng lượng và những vật chất hữu hình như những ngôi sao, thiên hà, hành tinh kể cả loài người trên trái đất".
Luận chứng này lẩn lộn chung giữa vật thể và năng lượng, đây là sự gượng ép không cân xứng, không thể cho rằng "năng lượng tối" và "vật chất tối" cùng thể loại "tối"  hoặc cùng dạng vô hình như 5% năng lượng từ vật chất hữu hình. Dù "vô hình" hay "thể loại tối" Máy Gia tốc hạt lớn Big Bang LHC đều không ghi nhận được ,máy chỉ ghi nhận "nhiệt bức xạ " từ vật thể ,luôn cả ánh sáng cũng không ghi nhận được, vì ánh sánh không có nhiệt độ, chúng ta cảm giác ánh sáng nóng vì ánh sáng va chạm vào vật chất mới sinh ra "Nhiệt bức xạ".
"Nhiệt bức xạ "mới sinh năng lượng, chúng ta phải thấy lý luận này đúng trong những "Điện Mặt Trời". những tấm solar panel đều xoay mặt về hướng  xích đạo (Nam bán cầu xoay về hướng Bắc, Bắc bán cầu xoay về hướng Nam),vì xích đạo phát ra "nhiệt bức xạ" không ngừng quanh năm suốt tháng .
 Hiện tượng tạo ánh sáng được áp dụng trong thời thập niên đầu của thế kỹ trước dựa trên nguyên tắc : 2 điện cực âm dương gần nhau thì sinh từ trường, gần hơn nữa thì cực âm bị cháy sinh ra cực quang, dùng ánh sáng để chiếu phim, ngày nay được áp dụng trong máy EDM và máy hàn điện dùng để tạo khuôn, cắt sắt và hàn gắn sắt. Vậy ánh sáng trong từ trường đang có bức xạ sinh ra , nhiệt bức xạ ban đầu được ánh sáng giữ lại trong nguồn sáng. Như thế ánh sáng là chất cách nhiệt giữa bức xạ và môi trường xung quanh.
 2.-Trong khoa học không gian ghi nhận: khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời gần 150 triệu Km, trên bề mặt  Mặt Trời khoáng 2500 Km có lớp Chromosphere dầy khoảng 2.000 Km có nhiệt độ 35.500° F (19.704° C).Phía trên lớp Chromosphere là lớp Transition Region, rồi đến lớp Corona dầy khoảng một triệu Km có nhiệt độ thay đổi từ 1.900.000° F (1.055.538° C) đến 3.800.000° F (2.111.093° C) .Trong khi đó, độ nóng chảy của Titanium (rất chắc, cứng chỉ có 3.034° F (1.668° C) và độ nóng chảy hợp kim Tungsten 6.192° F (3.422° C). Như vậy, nếu phi thuyền không gian designed từ Trái Đất khi bay vào vùng Corona (cách Mặt Trời hàng triệu km sẽ tức khắc bị thiêu đốt thành tro bụi).
 Những cảnh báo này  là cách lý luân mang che sự thật, vì khoa học ngày nay chỉ muốn thám hiểm vùng không gian bên ngoài vòng đai Địa cầu, cách giải thích mơ hồ lý thuyết chưa thực nghiệm mà chỉ dựa trên nhiệt độ 35.500° F (độ nóng có thể biến Chrom nóng chảy thành khí Chrom, khoa học làm được chưa ?),như thế không rõ ràng trong tiến trình khoa học ngày nay.
 Hiện tượng nhật thực ngày 20/03/2015, nhìn từ Pháp, mặt trời bị che khuất đến 80%.GS Nguyễn-quang-Riệu viết : Mặt trời có một quầng khí quây xung quanh được gọi là Vành nhật hoa. Môi trường này nóng hàng triệu độ nhưng rất loãng và chỉ sáng bằng ánh trăng rầm cho nên bình thường Vành nhật hoa bị ánh sáng chói lọi của  mặt trời át đi ". Lời ghi nhận trên cho chúng ta thấy : "Vành nhật hoa" là vòng ánh sáng giữ nhiệt bức xạ hàng triệu độ C ,trên thực tế Mặt trời vẩn nóng khoảng 5.500° C .
Vậy "Vành nhật hoa" chỉ là vùng bảo-hòa bức xạ" để cân bằng nhiệt độ 5.500°C giữa Mặt trời và không khí (Ne2+2.F2) xung quanh ,cấu trúc này giống như "Bức xạ Phông Vũ Trụ 2,7° K " ngăn cách 2 vùng Vũ trụ 0° K  hoặc độ đóng băng "H2O+NH3+CH4 " 270°K đến 273°K (-3°C đến 0°C ) là nhiệt độ bảo-hòa giữa Jupiter-Saturn và bên ngoài Pluto có cùng độ lạnh He2+6.H2 .
Như thế trong Hệ Mặt Trời có 2 vùng nhiệt độ bảo-hòa, bên ngoài có "H2O+NH3+CH4" và bên trong có "Vòng nhật hoa" nhờ vậy Địa cầu có trên 4,5 tỷ năm nay .
 Trong tương quan bức xạ và ánh sáng có sinh ra nhiệt : Nhiệt độ này có được là do nhiệt ban đầu của bức xạ : Lúc phát sinh bức xạ có hiên tượng phát ra ánh sáng ,ánh sáng này giữ độ nóng bức xạ bên trong, ánh sáng như một cái bọc cách nhiệt (insulation) nên không có độ nóng , nhưng khi ánh sáng va chạm vào vật thể thì nhiệt bức xạ phát ra tại điểm tiếp xúc và làm nhiệt độ vùng xung quanh tăng dần.
*Ánh sáng từ Mặt trời bắn ra mang nhiệt bức xạ từ Mặt trời .
*Ánh sáng "Vành nhật hoa" mang nhiệt bức xạ do sự đốt các nguyên tố  trong từ trường sinh ra giữa Mặt trời và bầu khí quyển .
*Ánh sáng Mặt trời không đủ bền để chứa nhiệt bức xạ tại từ trường nên xuyên qua được "Vành nhật hoa" vì chúng cùng là ánh sáng, ánh sáng này bắn theo Horizon space đụng phải các hành tinh khác thì nhận nhiệt bức xạ mới .Địa cầu nằm trong Thái Dương Hệ trong không gian trục hoành (Horizon space) nên ánh sáng Địa cầu chỉ mang nhiệt bức xạ Địa cầu .
Địa cầu đang ở 14° C ,ánh sáng ở đây chỉ 14° C khi chạm vào vật thể ,từ đây nhiệt độ tăng dần bởi bức xạ không ngừng tấp tới .
*Nhiệt độ bức xạ giúp cho khoa học ứng dụng để đo cách ly thân nhiệt con người cũng như đo vận tốc xe đang chạy, những sự kiện này đều nằm trong bảo-hòa về bức xạ .
Nhiệt độ từng Hành tinh trong Thái Dương Hệ định bởi nhiệt độ Bức xạ phát sinh tại Hành tinh đó, vì ánh sáng bị khúc xạ bởi lớp không khí bên ngoài của Hành tinh, do đó ánh sáng tiếp nhận nhiệt độ bức xạ mới ,nên không còn là ánh sáng giữ nhiệt độ Mặt trời 5.500° C . Ánh sáng Mặt trời này (vào Vũ trụ không qua horizon space Thái Dương Hệ)  là nguồn năng lượng dồi dào cho các phi thuyền không gian .
Những điều này cho chúng ta thấy:
-Ánh sáng là bọc cách nhiệt giữ nhiệt bức xạ trong nguồn sáng .
-Nhiệt bức xạ vừa phát sinh được tia sáng mới tái tạo tiếp nhận, đó là độ nóng tia sáng.
-Như tia laser có thể đốt cháy khối kim loại, nhưng tia laser cũng dùng chửa bệnh con người, vì những tia sáng đặc biệt này nhận nhiệt bức xạ khác nhau.
-Ánh sáng không dẩn truyền độ nóng nhưng có bức xạ mới sinh năng lượng ,bức xạ được phóng ra khi tia sáng chạm vào vật thể .
-Ánh sáng từ Mặt trời ra là năng lượng dương, bức xạ này bị triệt khi đến Jupiter . Do ₫ó từ Jupiter qua từng hành tinh đến Mặt trời chịu ảnh hưởng năng lượng âm nên các hành tinh,áp suất bên ngoài vẩn cao hơn áp suất các hành tinh bên trong nên có hiện tượng tương sanh : mộc (Jupiter) sinh hỏa (Mars),hỏa sinh thổ (Địa cầu),thổ sinh kim (Venus),kim sinh thủy (Mercury).
-Năng lượng dương bị triệt tiêu tại Jupiter ,như thế từ Jupiter đến Saturn Uranus Neptune và Pluto chỉ có  "bức xạ âm" nên không ảnh hưởng đến băng đá "He2+6.H2" trên Jupiter-Saturn và "NH3+H2O+2.CH4" trên Uranus-Neptune-Pluto .

Những khám phá của vệ tinh New-Horizon và Juno cho chúng ta thấy:
Hệ thức  M(A+B)=a+(a-b)b và m=b+1  là một nguyên lý hóa-học biểu đạt rõ ràng Hệ Mặt trời :
-Hiện tượng băng đá "NH3+H2O+2.CH4" trên Pluto (1998) và sau tháng 7/2015 do phi thuyền New-Horizon phát hiện lớp băng đá N2+CO+CH4 ,nói lên 2 hiện tượng này cùng một nguyên lý :
* H2O+(NH3+CH4)  có m=18
* m=18 là phân tử H2O , thể tích lớn nhất của nước đóng băng ở -4°C ,ở nhiệt độ này :
*2.H2O+2.CH4 trở thành 2.CO + 6.H2 .
*6.H2 bay vào lớp khí bảo hộ Hành tinh Lùn, vậy chỉ còn 2.CO.  (1)
*2.NH3 trở thành N2+3.H2 (2)
*(1)+(2) : 2.CO+N2+3.H2 trở thành N2+CO + (CO+3.H2)
*CO+3.H2 trở thành CH4+H2O
*2.H2O+2CH4 là dạng bảo-hòa nước kết băng cùng với băng đá "N2+CO+CH4" đều ở -4°C  .
Trong độ lạnh -4°C trên Kuiper-Belt bảo-hòa H2O+NH3+CH4 trở thành N2+CO+CH4 +H2O :
11.(N2+CO) + 11.(H2O+CH4) có m=28  ....Đây là phân tử nitrogen (N2)  có lực hấp dẩn liên kết các bảo-hòa có m>28 không thể qua ngã Thái Dương Hệ vào Mặt trời thành nguồn  đối lưu mới ra khỏi Vũ trụ để bắt đầu trở lại chu trình từ ngoài "Bức Xạ Phông Vũ Trụ" vào. Các máy thăm dò trên vệ tinh New-Horizon  ngày 28/6/2015  phát hiện gần chục sao trong dãy Ngân hà tỏa ra ánh sáng mặt trời (solar) có kích thước lớn hơn trăm lần của ban đầu. Những hiện tượng cho thấy có liên quan bảo-hòa giữa bức xạ và ánh sáng từ Mặt trời (ánh sáng không qua Hệ Mặt Trời vẩn giữ nhiệt bức xạ 5.500° C ) .
Chính bức xạ tại đây gôm tụ các vật thể bảo-hòa m>28 mà tạo nên nguồn "lổ Đen" (vì ánh sáng chứa bức xạ 5.500° C va chạm vật thể tại đây tạo thành vùng áp suất thấp nên hấp dẩn vật thể đi vào tạo nên kích thước sao lớn thêm , bởi ánh sáng từ Mặt trời không qua Thái Dương Hệ) có khuynh hướng mang những "vật thể trơ lì" không vào được Hệ Mặt Trời đi ra ngoài "Bức xạ Phông Vũ Trụ" .
*Đồng thời cũng cho chúng ta thấy:
-"Năng lượng âm" có m>28 không đi qua vòng đai Pluto mà trở về vùng lạnh "Bức xạ Phông Vũ Trụ 2,7° K  .
-Xác nhận rõ hơn về vận tốc Saturn, Uranus, Neptune Pluto và Jupiter .
-Nhiệt độ của từng hành tinh là nhiệt bức xạ phát sinh tại hành tinh đó .
-Nhiệt bức xạ tạo ra vùng bảo-hòa để liên kết vùng bảo-hòa khác tạo nên mạng liên kết Vũ trụ .
Nhờ nhiệt bức xạ này mới bảo-hòa được 2 nguồn năng lượng âm-dương do 2 nhóm hành tinh không cùng vận tốc trong Thái Dương Hệ được cố định.
Những dẩn chứng trên khoa học không giải thích vì chưa chứng minh, do đó chúng ta tùy nghi giải thích mà không cần suy luận rồi tạo ra trường phái từ chương không tinh thần khoa học .

D.-Bảo-hòa trên Địa cầu liên kết cùng Vũ trụ .
Nhìn từ Địa cầu chúng ta,3/4 bề mặt là đại dương phủ bởi nước mặn bảo-hòa 75g muối/lít và gần bờ có nước biển bảo-hòa 360g muối/lít cho bởi hệ thức :
7.NaCL+41.H2O  có ptl  m=25   được tính như sau:
*7.Nacl =7(58,5)=409,5g  trong 41.H2O  (738cc).
*409,5g NaCl (có thể tích 383cc) trong 1.121cc (738cc+383cc) nước muối bảo-hòa ,suy ra 1lít nước muối bảo-hòa có 366g muối,vậy 6g muối/ lít khoảng 0,06% trọng lượng ,điều này đúng với định lý bảo-hòa từ Địa cầu, với 3/4 mặt nước biển kết liền bầu khi quyển dày trên 65.000 km và kết liền vùng bào hộ Ozone được "năng lượng tối" thấm thấu không ngừng.
Sự bảo-hòa trên mặt biển do nguồn nước từ dưới độ sâu 300m đại dương thấm thấu vào phần nước mặn bên trên do muối từ những mỏ muối theo mạch nước ngầm chảy vào .Nước từ đáy biển trồi lên do bởi nhiệt trong lòng đất làm thể tích nước lớn lên (tỷ trọng < 1),do đó nước biển có 75g muối/lít

.Gió (không khí) trên mặt biển đẩy đưa nước biển vào bờ ,qua 7  lần bảo-hòa liên tục tạo thành bảo-hòa 360g muối/lít tại những bờ biển mặt đất nóng hơn,như Biển Chết (Dead Sea),
Mặt biển kết liền bầu khí quyển và vùng Ozone (N2),vùng khí bảo hộ ̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣ cho Địa cầu,được "năng lượng tối" thấm thấu vào .
"Năng lượng tối" đối với các nguyên tử tự do thì có khuynh hướng thấm thấu vào như sự về nguồn cội,vì "năng lượng tối" được sinh ra rất nhiều lần bởi giao động lượng tử trong "vật ảo" ,"năng lượng tối" làm nên màng nối kết  đến các hành tinh khác, tạo thành lực chằn kéo liên mạng với  các tinh cầu có riêng bầu không khí quanh mình, bởi thế chúng ta thấy các Hành tinh như ở một vị trí cố định trong Vũ trụ .
Trong trường hợp "năng lượng tối" bảo hòa hoàn tất với nguyên tử, nguyên tử được no đầy năng lượng như ở 0° K thì lớp khí bảo hộ  tinh cầu này  sẽ trở thành "siêu năng lượng" có thể mang cả tinh cầu chuyển động tự do với vận tốc không định được rồi bay ra khỏi qũy đạo hoặc có thể hướng về  "Black hole".Đây có thể là năng lượng dùng trong "Vật bay trong Vũ trụ.UFO".
Vậy "siêu năng lượng có thể là : " Năng lượng tối + nguyên tử khí " .

E.-Đất hiếm (V+Bi+F2):
Bảo-hòa trong lòng đất chứng minh cho chúng ta thấy thực tế về sự liên kết bảo-hòa.
Tại Núi Pháo Việt-Nam có trữ lượng quặng voframn đến 21 triệu tấn, về Flo khoảng 19,2 triệu tấn. Khi khai thác mỏ này có khả năng cung cấp 15% vonfram, 20% bitmut và 7% florit lượng  cung toàn cầu.Đây là dự đoán do Tập đoàn Masan (TQ) cho công ty Bản Việt (VN) biết để  độc quyền khai thác tài nguyên này tại VN với trị gía 200 triệu đô la.
Nhìn vào báo cáo này chúng ta thấy:"Tập đoàn Masan đã lừa bịp Bản Việt,vì 7% florit không thể là 19,2 triệu tấn florit trong 21 triệu tấn "đất hiếm" .
Nhưng báo cáo trên cho chúng ta biết được sự thật đất hiếm tại Núi Pháo gồm có :
V(vanadium) m=51, Bi(bismuth) m=209 và F2(florine) m=38 .
 Ta thấy "Đất hiếm V+Bi+F2" có thể viếtdưới dạng bảo-hóa :  V+(13.Bi+171.F2) .
 Bảo-hòa 13.Bi+171.F2  là kết qủa 13 lần bảo-hòa của Bi+171.F2  có m=39 .
Sau 13 lần bảo-hòa,13.Bi+171.F2 đủ để trở thành một  V (vanadium) ảo  ( m=38+13=51) .
Nhưng trong đất hiếm lại có thêm vanadium thật,vậy có bao nhiêu vanadium thật :
"1.V+13.Bi+171.F2".
Phân giải hệ thức này chúng ta có kết qủa:
0,6% Vanadium + 29,3% Bismuth + 70,1% Florine.
(đem so với kết qủa Masan 15% vonfram, 20% bitmut và 7% florit thì ta thấy thực ra Masan tìm được 1,5% vonfram,29% bismut và 70% florit.Đây là cách bịp Masan với công ty Bản Việt).
Kết qủa  29,3% Bismuth + 70,1% Florine cũng đủ để nói lên bảo-hòa 13.Bi+171.F2 là Vanadium,nhưng trong đất hiếm lại có thêm 0,6% V thực,điều này nói lên:
Muốn bảo-hòa trở thành thật thì phải có "một lượng nhỏ 0,6% thật, thì đủ để xác nhận bảo-hòa đó là chất thật 100% .
Từ đây cho ta một "Định lý Bảo-hòa" :
"Để có một bảo-hòa vững bền,cần phải thêm ít nhất 1% nguyên tố thật trong nguyên tố bảo-hòa".
Đây là luật  tự nhiên về "Bảo-hòa hợp kim trong lòng đất".
Hiện tượng đất hiếm cho chúng ta thấy :chất khí (F2)  bảo-hòa với kim loại (Bi) trong lòng đất ,vậy trên mặt đất có sự bảo-hòa gì ?
Như chúng ta biết cuộc sống con người bắt đầu từ thời đồ đá,khi biết dùng lửa sưởi ấm để cải thiện đời sống,phát hiện trên đất có những  vật cứng rắn màu vàng nên xử dụng nó làm thành đồ vật,vì Sắt (Fe) ,Đồng (Cu), Kẻm (Zn) lộ thiên trên mặt đất trong dạng bảo-hòa :
       8.Cu+8.Fe có m=64  (đồng thau)
và   9.Zn+9.Fe có m=65  (sắt thép)
trong trạng thái bảo-hoa Fe không bị rỉ ,nên con người biết dùng đồng thau trước tiên rối sau đó mới tiến qua thời sắt thép.
các kim loại Sắt (Fe m=56) , Cobai (Co m=58.9) , Nickel (Ni m=58.7) có trọng khối gần bằng nhaư,nên hiện tượng bảo-hòa của Fe vớì Đồng (Cu m=64) hoặc kẻm (Zn m=65)  có thể có tiến trình ở Cobal hoặc Nickel :
 -bảo-hòa M(Zn+Fe)=65+9(56)    m=57  thành M(Zn+Fe)=4.Zn+9.Fe   có m=59
-bảo-hòa  M(Cu+Fe)=64+8(56)   m=57  thành M(Cu+Fe)=3.Cu+8.Fe   có m=59
Kim loại m=59 có thể là :Co(cobalt) m = 58,9 hoặc Ni(nickel)=atm.w 58,7.
Thật ra đây cũng là dạng đất hiếm,muốn chúng trở thành Co hoặc Ni thật thì chúng ta cần thêm 1% lượng Co hoặc Ni thật vào .
Trên thực tế những bảo-hòa này khởi đầu từ mỏ sắt trong dạng
Fe là nguyên tử nhỏ nhất nên dễ kết bảo-hòa với Co,Ni,Cu và Zn  tại lòng đất :
       Co+3.Fe có m=57
       Ni+3.Fe có m=57
       Cu+8.Fe có m=57
       Zn+9.Fe có m=57
Những bảo-hòa này có cùng phân tử lượng m=57 ,đây là sự bảo-hòa tự nhiên trong lòng đất,đến khi con ngưới khám phá ra mõ than (C) khoản thời Xuân Thu Đông-Chu 500 năn tcn ,dân nước Việt (Phạm-Lãi)rèn được binh khí sắc bén và bảo kiếm nhờ thế mới đánh được nước Ngô ,như thế Co và Niđã phát hiện được từ thời này mà con người chửa hay biết .hiện tượng bảo hòa bao trùm cả lục địa .
Đồng(Cu) và sắt(Fe ) là 2 kim loại có tính sinh ra điện khi gần kề nhau,nên việc kết tụ vớì Co và Ni , bảo-hòa 4 kim loại này có thể là "huyền thép" mà người xưa thường nói.Nếu giữa Cu và Fe có màng nhựa thì trở thành một tụ điện.Đây là đặc tính tự nhiên trên Địa cầu này.
Những dẩn chứng bảo-hòa  từ lòng đất (đất hiếm,bảo-hòa Fe) đến mặt đất,từ đáy biển sâu đến bầu trời tiếp nối vùng Ozone được "năng lượng tối" vào tạo thành mạng liên kết các Hành tinh trong Vũ trụ .
Những nhận thức này có được đều từ : Hệ thức bảo-hòa không khí Địa cầu có sự liên kết mật thiết với nhau trong Vũ trụ .

F.- Bảo-hòa giữa 2 chất khí .
Hai chất khí hợp với nhau không có phàn ứng hóa học nhưng có dặc tính bảo-hòa, như dẩn chứng ở trên, chất khí có phân tử nhò thấm thấu vào khí có ptl lớn,điều này dẩn chứng từ không khí : Nitrogen (N2) thấm thấu vào Oxygen (O2) để giữ khômg khí luôn luôn là 1.O2+4.N2 được trình bày theo hệ thức dưới đây:
M(A+B)= a + (a-b)b (1)  và m=b+1  (2)   thực ra b<m<b+1 .
Vì chất khí không có hiện tượng hòa tan như chất lỏng mà chỉ có sự thấm thấu,sự thấm thấu hoàn tất là sự bảo-hòa.
Sự bảo-hòa xác đinh phân lượng rõ ràng cho một sự thấm thấu hoàn tất như :
-Không khí ở Địa cầu gồm có 1 thể tích O2 và 4 thể tích N2.
Kết qủa do sự chuyển động có thu năng lượng như kết qủa của "C + D" cũng nhận năng lượng:
A + B  cho ra  C + D :
A + B đánh vở phân tử ( sinh nhiệt) để kết thành C + D ( thu nhiệt).
Không khí không cháy được mặc dù O2 là chí cháy,muốn không khí cháy thì phải phá vỡ bảo-hòa tách rời O2 và N2 ra .
-Muốn đánh vở một bảo-hòa thì cần đến năng lượng dương phủ trùm xung quanh không khí ,đây là nguyên lý trong kỹ nghệ hàn gío (Trước tiên đốt cháy gas butan sau đó chỉnh không khí đi giữa ngọn lửa để có ngọn lửa màu xanh,ngọn lửa màu xanh là do O2 trong không khí thiếp vào).
-Sự đánh vỡ không khí còn nhìn thấy ở đống lửa than hồng,xung quang bên ngoài vẩn còn vệt than đen ,nhưng bên trong than hồng rực sáng vì bảo hòa không khí bị đánh vỡ cho ra O2 giúp bào sự cháy.
Nhờ đặc tính bảo-hòa này mà các vật thể Vũ trụ từ dạng vô hình dần dà kết thành thiên hà,tinh tú và Thái-dương-Hệ thành mạng liên hệ thiên nhiên tạo sự sinh tồn vạn vật ,con người cũng không ngoài định luật này .
Hệ thức M(A+B)=a+(a-b)b  và m=b+1  b    (b < m < b + 1 ) có thể coi như là "nguyên lý bảo hòa " vật thể trong Vũ trụ :

Bảo-hòa giữa 2 chất khí định trên thể tích chứ không ở trọng khối phân tử.
Định lý : Mổi phân tử khí đều có cùng thể tích là 22,4 lít .
-Bảo-hòa giữa CO2 và hơi  H2O (mây) theo hệ thức:
M(CO2+H2O)=CO2+26.H2O
cho thấy 1 thể tích CO2 sẽ kết hợp 26 thể tích hơi H2O , bảo-hòa có mol.w m=19 ,nhiệt độ thành mưa ở 17°C hoặc lạnh hơn.
Ban đầu hơi nước bốc lên hợp với không khi (không khí+11.H2O) trong dạng rising air,sau đó thành mây  (m=18) sẽ mưa ở 21°C .
(sự khác biệt 4°C  tôi chọn ở đây dựa vào thể tích lớn nhất của nước thành băng là -4°C ,ý muốn nói nhiệt độ làm mưa 2 loại mây này cao hơn  4°C) .

Khí carbonic CO2 thải ra từ xí nghiệp vào không khí trong dạng sinking air m=30 nên bay lên dễ dàng trong bầu trời,rồi sau đó lặn chìm từ từ xuống hợp cùng rising air trở thành bảo-hòa : CO2+26,H2O có m=19 .
Do đó khi nhiệt độ  ở 21°C (70°F) mưa rất ít trong khi bầu trời mây vẩn còn mây dầy đặc ,vì loại mây bảo-hòa m=19 cần độ lạnh 17°C (62°F) ,do đó 26 thể tích nước vẩn ở trên trời nên thường tạo ra hạn hán,khi thời tiết vào khỏang 17°C (62°F) thì trận mưa có thể 26 lần mưa bình thường cùng lúc trút xuống tạo nên trận mưa lũ gây lụt tại đường phố.
Đôi khi những cụm mây bảo-hòa này có khi như một cái "nấm khổng lồ ",chân nấm là nguồn mưa,chuyên viên thời tiết gọi đây là "microburn" là vùng bị mưa rộng lớn làm nên trận hồng thủy chỉ trong vài giờ,mưa như thác nước trút xuống gấp 50 hoặc 75 lần mưa bình thường,vì thế có thể làm vỡ cả đập nước.Sau trận mưa mây bảo-hòa nguồn nước có nhiều CO3H2 (acid carbonic) , là dạng CO2+H2O trong thiên nhiên ,vì thế khoa học ngày nay có khuynh hướng tái xử dụng nguồn nước này  kết hợp với H2 chế biến nhiên liệu.
Địa cầu bị hạn hán là  do bởi không đủ lượng mưa và cây cối không có đủ CO2 để thở,nhiệt độ nóng lên làm nghẻn các lổ khí trong cây để cây tránh bị mất nước,bởi cây không nhận được CO2 nữa và qúa trình quang hợp bị ức chế,cản trở việc tạo ra dưởng chất để nuôi cây,làm cây cằn cổi thân khô dễ bị chày,vì rừng thiếu nước và cây không dể tiếp thu CO2" (RFA.nov/2012).Những điều này cho thấy CO2  thải ra từ các xí nghiệp bị giữ ở trên bầu trời,Giáo sư Kostas Konstantinidis,thuộc viện công nghệ Georgia phát hiện :"một số lượng rất lớn các vi khuẩn có khả năng hấp thụ các phân tử có chứa C (carbon),chủ yếu đến từ khí thải CO2,dầy đặc trên tầng khí quyển đối lưu trên độ cao giữa 6-10 km.(rfi.nov/2013).

G.-Giải Nobel năm 2010 là một cảnh báo khoa học đang tiến vào lãnh vực "Bảo-hòa trong Vũ trụ":
-Về Vật lý trao cho 2 khoa học Nga với phát minh graphene là hợp kim Pb+C,có thể giải thích theo hệ thức:
 M(Pb+C) = Pb+195.C  có mol.w m=13
-Về Hóa học cho 3 hóa học gia 2 khoa học gia  Mỹ một khoa học gia Nhật về sự nghiên cứu Pt (platium)  làm chất xúc tác để tách rời electron trong nguyên tử. 
Trong kết qủa này cho tôi sự so sánh với bảo-hòa Pb+12.Pt cho ra nguyên tố m=196 ,có thể xem như  Pt là chất xúc tác nhận thêm electron từ Pb ?
Kết quả lần nhì : 2.Pb+12.Pt trở thành nguyên tố  m=197 có cùng trọng khối nguyên tử vàng (Au) .
Những kết qủa này cho thấy: Bảo hòa gần như  là một "Nguyên lý" nhưng khoa học vẩn chưa xác nhận,vì đây là "Bí mật thương nghiệp" .
Từ những dần chứng trên chúng ta thấy trong Vũ trụ tự nhiên có 3 hình thức bảo-hòa :
1.- Bảo-hòa trên mặt Địa cầu:
theo hệ thức M(A+B)= a + (a-b)b  với m=b+1    (b<m<b+1)  như:
-chất khí :không khí 1.O2+4.N2 (m=29)
-dung dịch : nườc biển NaCl+41.H2O (m=19)  .
-chất rắn : có những bảo-hòa C với kim loại nhẹ....đất..bụi..
2.-Bảo-hòa dưới mặt Địa cầu (dưới mặt nước biển và mặt đất) thì có :
*mõ muối 7.NaCl+41.H2O có m-25  (nước muối bảo-hòa 360g NaCl/lít)
* đất hiếm 13.Bi+171.F2  có m=51    (vanadium ảo trong võ đất)
Những bảo-hòa này theo hệ thức:
 M(A+B)=n.a + (a-b)b   (n:số nguyên tố có ptl lớn , cần 0,6% chất thật vào thì sẽ được như thật) .
Từ đây suy ra định lý bảo-hòa :
"Trong bảo-hòa cần thêm 1% chất thật thì bảo-hòa trở thành như nguyên tố thật".
như vàng ảo 2.Pb+12.Pt có m=197  có đặc tính như vàng thật .
3.-Bảo-hòa có nhiều nguyên tố như Co,Ni,Cu,Zn và Fe  thì nguyên tố ntl nhỏ nhất liên kết bảo-hòa từng những nguyên tố khác theo hệ thức :
M(A+B)= a + (a-b)b  với m=b+1 
(Co+3.Fe ) + (Ni+3.Fe) + (Cu+8.Fe ) + (Zn+9.Fe)
đây là hợp kim sắt không rĩ  m=57 . là  liên kết bảo-hòa bền trong võ trái đất làm võ Địa cầu rắn chắc thêm.
Trong 3 hình thức bảo-hòa này là nguyên tắc  luyện kim từ năm 1800 ,thời gian bắt đầu  công nghiệp khoa học đã áp dụng như :
1- Như kinh đào Pontaysyll ở Anh dài trên 18 km hoàn tất đầu thế kỷ 19 do kỹ sư Thomas-Tedpord dùng hợp kim M(Zn+Fe) làm thành thép không rĩ đã kiến tạo vòng cầu vững chắc nối liền giữa 2 triền núi cũng như Tháp Eiffel-Paris có thểl à bảo-hòa (M(Zn+9.Fe) ,Tượng "Nữ thần Tự do"  Pháp tặng cho Hoa-Kỳ được đúc bằng nhôm (Al),thời này nhôm rất hiếm và qúy,vì  tính nhẹ không rĩ,có thể đây là tổng hợp kim  M(Zn+37.Al)  M(Cu+36.Al) .
2-Ngày 05/8/2012 Mỹ đã thành công  đưa chiếc xe thám hiểm làm bằng hợp-kim M(Ti+Al+Si) đổ bộ an toàn trên  Mars .Xe được kiến trúc bằng hợp kim Ti+Si+Al .
Bảo-hòa hợp kim M(Ti+Al) và M(Si+Al) tạo thành hợp kim có tính cách nhiệt ,cứng chắc và bền trong mọi va chạm .
 Ngày xưa việc  rèn kiếm,trui thép có thể chứng minh có sự bảo-hòa giữa kim loại và không khí , 1 chỉ vàng nung nóng chảy nhiều lần thì sẽ cứng hơn không còn tính mềm như ban đầu và nặng hơn.Bởi lý do này các thợ bạc thường nói:"làm nghề thợ bạc Tổ hay đãi".
Như thế chúng ta thấy quan niệm bảo-hòa đã được áp dụng từ đầu thế kỷ 19 ,nhưng khoa học không trình bày rõ ràng,vì đây có tính cách bí mật thường trường,Giải Nobel năm 2010 là một cảnh báo khoa học đang tiến lên việc tái xử dụng nguyên liệu tái tạo để con người tránh việc khai thác tài nguyên trong lỏng võ Địa cầu nhầm giảm bớt những thiên tai và ô nhiểm môi trường,t.Sự phát minh "graphene và dùng Pt làm chất xúc tác tách rời electron để cho chúng ta thấy thế kỹ 21 này con người đang hướng về việc tái xử dụng nguyên liệu phế thải để tránh sự lạm dụng tài nguyên trái đất .
 Hệ thức M(A+B)=a+(a-b)b  và m=b+1  sẽ trở thành nguyên lý có liên quan mật thiết về "Bảo-hòa liên kết mạng Vũ trụ".

H.-Bảo-hòa electrons và protons trong nguyên tử.
Khi tách rời vài electrons ra khỏi một nguyên tử để nguyên tử đó trở thành nguyên tố mới,như thế nguyên tố mới vẩn là nhân của nguyên tử đang dùng.
Thật ra giữa nhân và electron có sự bảo-hòa chức năng về "trọng khối" nguyên tử để cân bằng số "protons và electrons" trong nguyên tố mới .
Để có loại vàng ảo chúng ta có thể dùng "phóng xạ Helium" để tách rời electrons nguyên tử Pb :
1.-khí Helium dễ trở thành chất phóng xạ ở nhiệt độ cao.(theo bài He-3 từ Mặt trăng).
2,-Trong các nguyên tố cở size protons hầu như đều bằng nhau,nhưng electrons thì có lớn nhỏ khác biệt,đây là căn bản chức năng về "Bảo-hòa protons-electrons".
Electron He2 hầu như lớn hơn electrons các nguyên tử khác,và nhỏ hơn nhân không là bao, do đó kết nối electron và nhân không vững chắc,dưới độ nóng ban ngày của Mặt trăng dễ thành He-3,đây là phóng xạ He rất dễ dàng nhận electron nguyên tử khác có cở size nhỏ hơn.
3.-Cở size electron Pb chỉ bằng 0.656 của size electron He ,nên Pb rất dễ dàng bị He-3 lấy 7 electrons ra khỏi Pb .
4.-Chì (Pb) mất 7 (125-118) electrons nhưng vẩn là nhân (nuclear) Chì (82 protons),vậy đã thừa 3 protons.
 Trọng khối 3 protons sẽ rãi đều cho 118 electrons còn lại lớn thêm (3/118=0.025),như thế electron Pb lớn bằng 0.656+0.025=0.681 ,Pb bảo-hòa này còn lại 79 protons và 118 electrons cở size 0,681 ,so với trọng khối vàng thật có electron Au là 0.669 ,như thế vàng ảo có electron lớn hơn 0.012.
Để trở thành như vàng thì cần thêm 1% vàng thật,thì vàng ảo từ Pb này sẽ không có ảnh hưởng phóng xạ nữa do bởi ảnh hưởng Neutron trong nguyên tử thật để hoàn Au trung tính khi con người xử dụng nó.
 Kết qủa của hiện tượng này chúng ta thấy Pb mất đi 3 protons (Z1) và 7 electrons (B1) thì trọng khối ntl  Pb mất đi 10 (A1) để trở nguyên tố có ntl là 197  (207-10) ,ntl m=197 chính là Au .
 Hệ thức : Z1+B1 = A1 gần như là một định luật chung để tạo một nguyên tử mới từ nguyên tử có trọng khối lớn hơn .
Hệ thức này dựa trên gỉa thuyết trọng khối các proton đều bằng 1 .
 và Hệ thức : Nguyên tử lượng (atmw)= số protons + số electrons
 Chúng ta thử tìm dùng 3 kim loại  : V(vanadium) , Fe và Cu  .
-atmw V(51)=23.protons + 28.electrons
-atmw Fe(56)=26.protons+30.electrons
-atmw Cu(63)=29.protons+34.electrons 
Vậy lấy ra 2 electrons từ Fe thì Fe có thể thành Vanadium.
3 protons  còn lại bảo-hòa 28 electrons,trung bình mổi electron lớn hơn 3/28=0,107 .
cở size electron ảo này là 0.107+0.87=0,977 ,gần bằng 1 proton như thế V ảo này dễ thành chất có phóng xạ .
Tương tự lấy 4 electrons từ Cu  thì Cu có thể thành Fe .
3 protons còn lại phân cho 30 electrons còn lại (3/30=0,1) .
cở size ảo của Fe này là 0,1+0,85=0,950,gần bằng 1 proton ,như thế Fe ảo này cũng dễ thành chất phóng xạ.
Như trình bày Fe và Cu đều mất 3 protons để trở thành 2 nguyên tố ảo V và Fe đều dễ thành chất có tính phóng xạ cao .
Vì Fe và Cu đều thừa 3 protons nhưng Fe chỉ mất 2 electron còn Cu mất 4 electron,để bảo-hòa chức năng cho cho 2 nguyên tố V ảo và Fe ảo ,sắt và đồng phải mất 3 protons,như thế nếu chúng ta đem 2 nguyên tố ảo này gần nhau thì sẽ sinh ra dòng điện cao hơn vì mất 3 proton trong nhân bởi 2 nguyên tố ảo này làm từ Cu và Fe .
Trong tự nhiên 2 kim loại Cu và Fe gần nhau thì sinh điện,mà 2 chất V ảo  và Fe ảo được tạo thành bởi Fe và Cu có tính sinh phóng xạ cao bằng cở hũy 3 protons .
Ngày nay khoa học dùng đặc tính phóng xạ này để tạo thành năng lượng "Điện Hạt Nhân",Họ kế hoạch mang He-3 (dưới dạng tinh thể như hạt cát) từ Mặt trăng về Địa cầu và đang trắc nghiệm tại Pháp,có thể Họ đang nghiên cứu chế tạo He-3 thành He-2 ,như thế Helium chỉ còn 2 proton trong nhân,He-2 này biến thành năng lượng "Điện Hạt Nhân".
So sánh cách tái tạo He-3 thành He-2 tốn kém rất nhiều nhưng chỉ được năng lượng bằng hũy 2 protons trong khi cách tách rời electrons từ Fe và Cu tốn kém rất ít mà vẩn được năng lượng bằng hũy 3 protons,vậy cho chúng ta thấy dùng V ảo và Fe ảo để tạo năng lượng trong tương lai là điều cầm quan tâm đến vì chúng đều là nguyên tố tự nhiên trong Vũ trụ này .l
Đây là quan niệm cá nhân LKC nên có đôi lời cân nhắc :
Trước khi tiến hành công việc này cần tính xem electron ảo không lớn hơn 0,6% electron thật,như thế 1% chất thật thêm vào mới giữ được vật thể trung tính .
-Việc làm này dễ bi tại nạn phóng xạ,tốt hơn hết cần có thiết bị an toàn và chuyên viên về phóng xạ .

I.-Giải trừ khí thải CO2 từ kỹ nghệ.
Trên căn bản lý thuyết các kết hợp nguyên tố khí ,không có phản ứng hóa học mà chỉ thấm thấu vào nhau :
- Hơi nước thấm thấu vào không khí trở thành rising air .
- Không khí thấm thấu vào CO2 trở thành sinking air.
Vậy trong sinking air có thể có bảo-hòa CO2+ N2  hoặc  CO2+ O2  :
     CO2+16.N2 có ptl m=29
     CO2+12.O2 có ptl m=30
Bảo-hòa m=29 và m=30 cùng không khi lơ lửng trên trời qua đến mùa đông nên CO2 lại bị rising air thấm thấu vào mà trở thành bảo-hòa
     CO2+26.H2O có m=19 . Bởi thế mùa đông thường có bảo tuyết .
Trong các mùa khác do bởi bảo-hòa trực tiếp giữa CO2 và hơi nước nên thường có nhiều trận mưa lũ .
Những hiện tượng thiên tai này đều do bởi sự hiện diện CO2 trong bầu khí quyển.
Để giải trừ khí thải CO2 từ kỹ nghệ này,cách duy nhất là biến nó thành carbon (C) từ ống khói thải khí .
Vì CO2 và N2  đều là thể khí nên không có phản ứng hóa học,nhưng khi chúng ta thế N2 bằng kim loại có m=28 thì có phản ứng tương tự như:
  CO2 + 4.N2   cho ra  C + (O2 + 4.N2)
Nitrogen kim loại đó là nguyên tố nhom (Al) .
Nguyên tố nhom (Al) là kim loại mềm nhảo có ntl  m=27 ,bảo hòa với không khí hoặc N2 chúng ta sẽ có Al m=28 :
       không khí + 2.Al   có m=28
       và       N2 + Al      có m=28
hoặc          Fe + 29.Al  có m=28
hoặc          Cu + 37.Al  có m=28
những  Al m=28 này có thể gọi là nitrogen-aluminium , nên khi CO2 tiếp xúc với Al.m28 có dạng phản ứng như:
  CO2+4.N2  cho ra  C + (O2+4.N2)  (1)    thay  N2=Al.m28
thì  hệ thức (1) có thể viết :
   CO2+4.Al.m28  cho ra C + (O2+4.Al.m28)
vì Carbon là kim loại nên được giữ bởi Al.m28 ,còn O2  cũng bám hờ vào Al.m28 và sẽ kết hợp với  không khí  bay ra ngoài trong dạng  bảo-hòa :
    O2+3(O2+4.N2) có ptl m=30 (2)
hệ thức (2) là dạng bảo-hòa nên O2 không cháy được,khi ra ngoài thì hoàn toàn trở về không khí .
Trong cách làm này nhầm để tái xử dụng Carbon trong các kỹ nghệ cũng như việc tái xử dụng H2CO3 từ đại dương để chế tạo nhiên liệu,không ngoài mục đích tránh những thiên tai lũ lụt cũng như để giảm bớt khai thác tài nguyên trong lòng đất,như thế Địa cầu giảm bớt những khoảng trống bên trong vỏ đất , nguyên nhân chính gây ra động đất và sóng thần .
Giải trừ CO2 từ kỹ nghệ cũng nhầm đề bảo vệ môi sinh Địa cầu,giãm bớt ô nhiễm không khí con người sẽ có không khí trong lành hơn giúp cho sức khỏe tốt hơn,cây cối cũng tươi tốt hơn vì vẩn còn CO2 trên mặt Địa cầu do bởi trong phương pháp thu hồi C sẽ làm giảm vật tốc bay CO2 ,nên một số CO2 sẽ rớt về mặt đất giúp cho cây cỏ tốt tươi,lá cây không dễ khô cằn như thế nạn cháy rừng cũng giảm theo .

J.-Ống khói kỹ nghệ .
Trong công xưởng những ống khói kỹ nghệ phải được trang bị Al.m28 và cho không khí thông vào :
Bên trong ống thông khói dùng nhom (Al.m28 ) làm thành màng lược nằm trong khung nhom" "Fe + 29.Al " , mặt trong thành ống dẩn khói được thiết bị loại nhom "Cu+37.Al" .Bởi 2 loại nhom Fe và nhom Cu này gần nhau thì sinh ra từ trường nên cũng giữ lại C trên thành khung màng lược "Al.m28" dễ dàng hơn,cách tạống khói này để tạo mạng liên kết bảo-hòa trong lòng ống khóic.Cúng ta bơm thêm không khí vào giữ vài trò chất xúc tác mang bảo-hòa m=30 bay nhanh hơn đồng thời để Carbon dễ dàng tách rời màng nhom ,không khí vào cũng để dẩn O2 ra ngoài ống khói an toàn hơn,như thế việc bảo trì ống khói cũng như để tiện việc thu hồi Carbon.

K.-Bảo-hòa trong ý niệm y học
Đem Vũ trụ quan về Bức xạ ở nhóm Hành tinh Lùm Pluto và Jupiter vào y học chúng ta thấy:
-Bức xạ ngoài Hành tinh Lùn hướng  về vùng 2,7° K .Vì đây là "Bức xạ âm" tạo bởi  năng lượng 3°K .
-Bức xạ tại Jupiter do năng lượng âm từ ngoài Pluto vào và năng lượng dương từ Sun tạo thành,ta gọi đây là "bức xạ dương",nhiệt "Bức xạ dương" sẽ là nhiệt độ của vùng phát sinh bức xạ,vì thế các hành tinh Jupiter,Mars,Địa cầu,Venus và Mercury có nhiệt độ khác nhau,nhiệt độ độ này cũng là nhiệt độ của vòng đai mà Hành tinh đó đang bay.Những bức xạ sinh ra tại đây đều về  vùng 2,7° K .
Trong lý luận này ta áp dụng vào cách trị xạ liệu:
Thân nhiệt người khỏe koảng  37°C-39,7°C ,nếu trên 40°C  thì trong người có bệnh và có thể nguy hiểm đến tính mạng,nhiệt độ dưới 37°C trong thân nhiệt vẩn kể như bình thường, (mầm tumor có thể núp trong dạng nhiệt độ 36°C-34°C,vì con người chúng ta có 5% năng lượng tối,như chúng ta đều biết tất cả vật thể tạo dạng hình cũng ở từ độ lạnh năng lượng tối này,khi tumor thành hình thân nhiệt của chúng 36°C-34°C , y học chắc hiểu rõ vể các bào thai nhân tạo được nuôi dưỡng từ độ lạnh âm.Khi thân nhiệt trong người chúng ta tăng lên 37°C-38°C thì tumor hoạt động bức xạ sinh ra tạo vùng 40°C xung quanh.
Vậy trong quan niệm xạ trị chúng ta phải nhận rõ :
-Nhiệt độ bức xạ bắn vào tumor phải dưới 37°C ,có thể làm tumor khô lạnh (chết lạnh) nhưng không hại đến các tế bào khác,vì trong thân nhiệt không có vùng lạnh hơn 37°C ,nên khi bức xạ bắn vào chỉ tác dụng trên tế bào.
-Nhiệt bức xạ trên 40°C thì  mầm tumor sẽ phát tán sang vùng thân nhiệt 39,7°C-37°C,như thế mầm tumor sẽ lấn sang vùng khác.
Một quan niệm chúng ta cần cân nhắc để lựa chọn cách thức "xạ trị" tumor,vì  trong "Nguyên lý bảo hòa" không có sự tận diệt mà chỉ có sự kết hợp để trở thành vô hại.
-Mầm tumor bị èo còi trong nhiệt độ dưới 36°C và không thể phát triển ở thân nhiệt  37°C-39,7°C  cũng như khi chúng ta đang hoạt động.Tumor chỉ sinh trưởng khi con người đang ngủ ,khi chúng phát triển nhiệt độ xung quanh lên khoảng 40°C ,đây là nhiệt độ thích hộp cho tumor2m hại tế bào khỏe chung quanh,để tránh tumor sinh trưởng thì thân nhiệt phải ở trong trạng thái  bình thường,muốn được như thế này thì máu phải được lưu thông tốt,vì khi ngủ nhiều mao mạch máu chậm lại,như thế máu loản (thin blood) là điều cần đến.Ngày nay BAYER 81 mg là thích hợp nhất,thuốc này làm máu loản giảm thân nhiệt,giúp cho thân thể để kháng sự phát triển tumor.
Trong độ tuổi 55-60,với người khỏe mạnh,mổi tuần chỉ cần 1 viên BAYER 81 mg trước khi đi ngủ thì có thể ngăn ngừa sự tăng trưởng tumor,như thế cũng đủ để cầm chừng tính miển dịch tumor,dùng 1 viên BAYER 81mg 1 tuần là cách an toàn nhất,vì thuốc này cũng giúp ngăn ngừa chứng tai biến mạch máu não cho những người cao niên. (ý kiến riêng của LKC).
*Trong cách thức "hóa trị" cũng cần có nhận thức mới.
Chúng ta phải thấy "hóa liệu" như là dược chất,đừng giải thích nó như là một "hóa chất".
Chúng ta phải nhận rõ :
-Oxygen trong không khí giải trừ CO trong máu giúp con người sinh tồn,như thế không khí có tính dược trừ đi CO .
Trong cách nhìn này chúng ta sẽ nhận ra "không khí" là viên thuốc tự nhiên của tạo hóa.
Vậy để chế một viên thuốc trị bệnh chúng ta nên dựa trên nguyên tắc :
a- Chất thuốc (medicine) có mol.w như Oxygen m=32 .
b-Chất bảo-hòa thuốc (chất đạm) có mol.w như N2 m=28 .
Như thế "Medicine chửa bệnh "được bảo-hòa có mol.w=29 ,dược tính này sẽ không gây hại đến các tế bào khác.
c-Nguyên nhân gây bệnh như monocarbocide (CO) m=28.
Cơn bệnh phát sinh trong cơ thể do trạng thái sinh hóa bất thường của tế bào bệnh (m=28) phát ra nhiệt độ không ổn định (trên 39,7° C),vì thế bướu (tumor) sinh ra do sự bất cân xưng về dinh dưởng và bởi thân nhiệt mà ra

L.-Kết luân :Tất cả mọi chuyển động trên Địa cầu đều có thu "năng lượng tối"  , "năng lượng tối" thấm thấu vào các nguyên tử di động giúp cho cơ năng vật thể tăng trưởng và năng động hơn . Riêng về con người trên Địa cầu này ,thở là điều quan trọng,biết cách thở thì giúp sức khỏe được tốt hơn .
Giới tập võ thường coi trọng việc hô hấp,khi đứng tấn (2 bàn chân bám chặc vào mặt đất có tác dụng đến huyệt dũng tuyến.1.) hít không khí vào giữ nơi bụng (huyệt trung uyển.2.) chuyển xuống đan điến (huyệt quan nguyên.3.),đây là cách luyện tập "thở" để chuyển "huyền năng"(năng lưông tối) vào cơ thể,họ gọi đây là "khí công".Cách luyện này giúp cho thận thủy cường tráng,can mộc ôn nhu để khắc chế phế kim hưng thịnh như thế trung hòa tâm hỏa sẽ giúp thân thể tráng cường không bệnh hen suyển bởi tế bào vùng eo,vùng bụng được nhận "năng lượng tối" trực tiếp từ Vũ trụ .
Cách thở đó được bác sĩ Nguyễn Khắc Viện ghi lại bằng 12 câu như sau :
Thót bụng thở ra
Phình bụng thở vào
Hai vai bất động
Chân tay thả lỏng
Êm chậm sâu đều
Tập trung theo dõi
Luồng ra luồng vào
Bình thường qua mũi
Khi gấp qua mồm
Đứng ngồi hay nằm
Ở đâu cũng được
Lúc nào cũng được .
Từ năm 1943 đến năm 1948, ông phải chịu mổ bảy lần, cắt bỏ tám cái xương sườn, cắt bỏ toàn bộ lá phổi bên phải và một phần ba lá phổi bên trái. Các bác sĩ Pháp bảo, ông chỉ có thể sống chừng hai năm nữa thôi. Trong thời gian nằm chờ chết, ông đã tìm ra phương pháp… thở để tự chữa bệnh cho mình. Và kết quả là ông đã sống đến tuổi 85 mới mất (1997), nghĩa là sống thêm được 50 năm nữa, hoạt động tích cực, năng nổ trong nhiều lĩnh vực. Chuyện khó tin nhưng có thật.
Cách thở này là phương pháp dùng "hàn khí" từ "năng lượng tối" chế phục tâm hỏa (nguyên nhân gây ra mầm bệnh) tạo thân nhiệt bảo-hòa (37°C-39,7°C) .
"Năng lượng tối" là nguồn liên kết Vũ trụ với mọi loài trên Địa cầu .
Trong gần 100 năm nay ,con người lạm dụng khai thác O2 và N2 trong không khí chế nhiên liệu cho các phi thuyền chinh phục không gian làm bầu khí quyển hẹp dần,điểm hội tụ ánh sáng gần mặt đất hơn cộng vào hơi nước bốc nhanh từ đại dương làm độ ẩm không khí cao mùa hè nóng hơn và mùa đông lạnh nhiều,nguyên do bởi bầu khí quyển tiếp nhận N2 từ vùng Ozone thấm thấu vào không khí Địa cầu . Khí Nitrogen này có độ "năng lượng tối" cao hơn 5% những N2 thường trực từ hằng tỷ năm nay,những N2 mới này có mảnh lực mạnh tương tác đến võ Địa cầu , như một "siêu năng lượng" có khuynh hướng kéo trì các bảo-hòa trên mặt đất :
Hiện tượng năm 2015 trên hwy Nam-CA  có một khúc mặt đường gồ ghề như gợn sóng và nghiên về một bên và  vụ bùn chài theo chiều ngang làm ngập một khúc đường trên Hwy ,nguyên do bởi trong không khí có "siêu năng lượng N2" làm trương phùng mặt đất,hiện tượng liên kết này cũng có thể tạo ra phi đạo không được thăng bằng ảnh hưởng đến sự an toàn cho phi cơ đáp xuống (bay lên thì chắc không,vì biết được không an toàn rồi ?).
Những "siêu huyền lực N2" làm cả dung nham trong  lòng đất di chuyển mạnh thành động đất,nếu tâm chấn động phát sinh tại đại dương thì sinh ra sóng thần,trên không thì gây ra những trận bảo kinh hoàng,những cơn trốt ma dị ,thới tiết khắc nghiệt hạn hán lụt lội bất thường,băng tan  ở  2 vùng cực Địa cầu làm nước biển lấn chiếm vào lục địa ,khan hiếm nước sạch,mùa màng thất thu.Những thiên tai này đều do bởi  con người tạo ra,vậy chúng ta cần góp phần ý kiến để ngăn chận hủy hoại Địa cầu,bài viết này không nhầm chống lại quan niệm khoa học sẳn có mà chỉ để góp phần suy luận của quần chúng .
Trong tháng 7/2016 phi thuyền Juno ghi nhận Jupiter tự xoay theo chiều kim đồng hồ và sinh từ trường mạnh .
Tổng quát nhìn về Thái Dương Hệ chúng ta thấy đây là hệ bảo-hòa trong  "Bảo-hòa liên kết Vũ tru" .
-Mặt trời và Jupiter tự xoay chính mính theo chiều kim đồng hồ
-Các hành tinh khác tự xoay chính mình và qũy đạo đều chuyển động ngược chiều kim đồng hồ .
*Từ trường từ Mặt trời và Jupiter tạo thành 2 nhóm Hành tinh có vận tốc chuyển động khác "
-Mercury,Venus,Địa cầu,Mars và Jupiter có vận tốc như Địa cầu .
-Saturn,Uranus,Neptune và Pluto (chủ về thủy) có cùng vận tốc,chạy nhanh hơn Jupiter .
Chính vận tốc Saturn,Uranus.Neptun và Pluto cung cấp đầy đủ "năng lượng âm" tại Jupiter và bức xạ dương từ Mặt trời ra đến Jupiter thì triệt tiêu .
Nhờ vậy năng lượng âm vào Mặt trời bắt đầu chuyển hóa trong quan niệm "Ngủ hành tương sinh": "Thủy sinh Mộc,Mộc sinh Hỏa,Hỏa sinh Thổ,Thổ sinh Kim,Kim sinh Thủy".Quan niệm này phù hợp với chuyển biến 4 mùa trên Địa cầu :
"Phong mộc ở mùa xuân sinh huân hỏa.Huân hỏa ở đầu mùa hạ và tướng hỏa ở cuối hạ.Thử hỏa ở chính hạ sinh ra thấp thổ.Thấp thổ ở đầu thu sinh ra táo kim.Táo kim ở cuối thu sinh ra hàn thủy.Hàn thủy ở mùa đông rồi tự sinh hóa đi vòng trở lại mà cứ thế sinh hóa liên hồi" .
Điều chúng ta không ngờ là tương đồng trong quan niệm hít thở của Bác sĩ Nguyễn-khắc-Viện :
*Phình bụng thở vào (giữ năng lượng tối tại Đan-điền trợ thận-thủy,phế-kim sinh thận-thủy).
-Trong tự nhiên nhóm Saturn-Pluto như là lá phổi Thái Dương Hệ chủ về thủy "H2O+NH3+CH4" sinh Mộc-tinh .
*Thót bụng thở ra (đưa năng lượng tối vào mặt trời, mặt trời ở đây ý nói qủa thận thuộc hỏa) như các phần mô bên trong cơ thể .
-Không khí vào phổi-kim như hàn thủy trợ giúp can-mộc sinh ra máu-huyết đưa vào tim-hỏa bơm đi khắp cơ thể,nhờ thế mới kiên cường vị-thổ (bao tử) và tỳ-thổ (lá lách) , tỳ-thổ bị ức chế (khắc) can-mộc tiết ra dịch tỵ tạng vào máu huyết chuyển đến tim-hỏa trợ phế-kim tiếp hơi (khí) dồi dào nuôi thận-thủy tạo ra năng lượng dương trong cơ thể con người,can thận sung mãn gân-cốt tráng cường con người khoẻ mạnh. Những dẩn chứng này cho chúng ta thấy chuyển hóa trong Thái Dương Hệ gióng như trong cơ thể con người .
*Đây là nguyên tắc trị liệu trong Đông y
-Tỳ-thổ tiết ra dịch lá lách nhờ sự ức chế can-mộc,mộc khắc thổ (cây làm đất cằn cỏi) .
-Dịch lá lách giúp tế bào lão hóa chậm và sinh sản thêm tế bào,một bác sĩ Nga khám phá ra năm 1950 .
-Để bồi bổ Tỳ-thổ,Đông y bồi bổ vị-thổ để trợ lực tỳ-thổ .
-Trong khoa châm cứu : đốt nóng huyệt túc tam lý liên tục 7 ngày,mổi ngày 7  liều (xo tròn "ngãi cứu" thành viên như hạt đậu đen,một liều tức là 1 viên trên 1 miếng gừng mỏng nằm trên huyệt,ai chịu được nóng cao là tốt,tránh đừng để bị phỏng,trong sách ghi việc làm này tốt nhất vào đầu tháng.Cấm kỵ không được lạm dụng qúa nhiều,vì tế bào non qúa nhiều sinh ra bịnh hoại huyết,ung thư máu,bởi cảnh giác này nên tôi chỉ làm 3 ngày/tháng và 7 lìều đốt cho mổi ngày).
-Muốn cho tay chân cứng cáp thì can-mộc phải khỏe,như thế máu huyết đầy đủ cơ thể xung mãn .
-Can-mộc khỏe gân bắp sẽ mạnh do bởi tế bào nhận insulin từ tỳ-thổ lá lách làm lão hóa chậm lại .(đây là cái lý tương khắc trong cơ thể mộc chế thổ cây cối tốt tươi đất đai cằn cổi,nhưng tỳ-thổ được vị-thổ bồi bổ (túc tam lý thuộc về vị kinh) tiết ra dịch lá lách vào máu dẩn đến tim (Đông y quan niệm can-mộc sinh ra máu) truyền khắp cơ thể sinh sản tế bào làm lão hóa chậm lại.
Như thế chúng ta sẽ thấy không khí chúng ta thở vào không những chỉ thuần O2 vÀ N2 mà còn có "năng lượng tối"" ,đây là "năng lượng âm" trên Saturn+Uranus+Neptune+Pluto tượng về "thủy tính" .
*Theo chuyển hóa tự nhiên năng lượng tối vào phổi tương sinh can-mộc (thủy sinh mộc),can-mộc sinh tâm-hỏa (O2 từ phế-kim theo máu chuyển lại về tim lưu khắp cơ thể ),chủ yếu bồi dưỡng dạ dày (tâm hỏa sinh vị-thổ) .
*Theo chuyển hóa con người đó là cách thở con người sáng tạo . N2 từ phế-kim đi thẳng vào thận thủy (kim sinh thủy) giúp 2 qủa thận tráng cường .
-2 qủa thận theo Đông ý : một bên thuộc thủy một bên thuộc hỏa.nơi đây là "mạng môn tướng hỏa" trong thân thể,nơi phát ra sinh lưc con người.
Quan niệm này có thể là ý niệm từ Thủy tinh (Mercury) và Mặt trời là nơi khởi nguồn năng lượng dương trong Thái Dương Hệ . Từ ngàn năm trước người Hoa cho rằng :Jupiter chạy quanh Mặt trời 1 vòng thì Địa cầu cần 12 năm .Saturn chạy quanh Mặt trời 1 vòng Địa cầu cần 10 năm,nghĩa là Saturn chạy nhanh hơn Jupiter.Ngày nay trong tháng 5/2016 chúng ta đều thấy:Saturn lần lượt nằm giữa Jupiter-Mars-Venus-Mercury,chứng thực Saturn chạy nhanh hơn Jupiter và trong tháng 7/2016 Phi thuyền Juno bay quanh Jupiter 1 vòng phải mất 14 ngày của Địa cầu,đây là thời gian Juno bay trên độ cao cách xa Jupiter,nếu bay sát gần mặt Jupiter thì chúng ta sẽ thấy khoa học không gian có sự báo cáo khác biệt hơn.
Như thế trên quan niệm Đông-Tây không có gì khác biệt lớn về Vũ trụ,và những suy luận về "năng lượng tối" trong "Bảo-hòa liên kết Vũ trụ" theo quan niệm Đông y không có gì để bài bác là không khoa học .
Từ sự thành hình Thái Dương Hệ đến sự chuyển hóa thời tiết trên Địa cầu qua sự vận chuyển trong cơ thể con người đều cùng chung một quy trình gắn liền "Bảo-hòa năng lượng tối",chúng ta không là vật thể riêng biệt mà cùng ảnh hưởng chung với mọi sinh thái trên Địa cầu này,bầu không khí trong lành 1.O2+4.N2 cho chúng ta một hệ thức M(A+B)=a+(a-b)b m=b+1 là câu giải đáp sự tiến hóa tự nhiên,chúng ta không nên mãi mê trên những điều đã có mà không thấy đó còn thiếu sót.
Chúng ta phải thấy hệ thức trên là một nguyen lý hóa học căn ban cho sự lý luận chuyển hóa Vũ trụ để hoàn chỉnh cách mạng vật lý học về lượng tử và thuyết tương đối Albert Einstein (trên hơn 100 năm nay) cũng như Ông đã từng vượt hẳn thuyết tuyệt đối Newton (trên 200 năm trước Albert Eintein) ,như thế chúng ta mới không phí phạm tài nguyên trên Địa cầu này và giải quyết những khó khăn thiên tai khắc nghiệt để mọi người cùng hưởng phước từ Thượng Đế ban cho .

Chương-k-Liên 

Ngày 04/10/2016