Chút lãng mạn cuối cùng

Đỗ Duy Ngọc

Có trầu mà chẳng có cau
Thì đành không đỏ môi nhau kiếp này

Buổi chiều ở Blao sương xuống sớm, những ngọn gió thổi về làm rung những cành thông non trong vườn, trời nhờ nhờ tối, không gian chùng xuống nặng nề. Ba người đàn ông ngồi uống rượu trong căn nhà nhỏ trên sườn đồi, li rượu được rót ra nhưng chẳng ai nâng chén, bởi rượu chỉ là cái cớ để níu chân nhau ngồi lại. Ngọn đèn cầy trắng cắm trên chiếc giá đồng cổ rất sang trọng hắt ánh sáng trên ba khuôn mặt tạo thành bức tranh mang phong cách thời Phục Hưng. Trong buổi chiều ấy và trong khung cảnh ấy, tôi được người bạn già kể lại câu chuyện này, đây là câu chuyện có thực, và là một đoạn đời của ông. Những con người trong câu chuyện này cũng đang còn hiện hữu, và đang là người nổi tiếng, nên khi kể lại chuyện này, tôi xin đổi tên của các nhân vật chính.
* * *
Chị Lê là con gái đầu của O Hiếu, mẹ chị Lê là anh em chú bác với ba tôi, chị Lê hơn tôi mười tuổi. Lúc tôi khoảng mười hai tuổi đang học lớp đệ thất thì chị Lê đã là một cô gái đang học năm cuối sư phạm Qui Nhơn. Chị là một cô gái đảm đang, rất giỏi việc nữ công, nội trợ. Chị có khuôn mặt hiền, thánh thiện, tóc chị dài thoang thoảng mùi bồ kết thường được kẹp bằng chiếc kẹp đồi mồi, nước da trắng, không chút son phấn và chính những nét tự nhiên đã làm cho khuôn mặt chị lúc nào cũng sáng lên một thứ ánh sáng mộc mạc mà đằm thắm rất Việt Nam. Chị không có nhan sắc rực rỡ, nhưng đôi mắt chị trong veo, những ngón tay thon nhỏ với các móng lúc nào cũng được cắt sạch, cộng với những cử chỉ, lời nói luôn dịu dàng đầy nữ tính gây thiện cảm với người chung quanh. Tôi chưa bao giờ nghe chị nói nặng lời hay lớn tiếng với ai, dù đó là người ăn kẻ ở trong nhà. Chị thường đội nón lá, đi guốc mộc, mặc chiếc áo bà ba cổ trái tim bằng vải lụa mềm. Thời đó, tôi đọc rất nhiều tác phẩm của Tự lực văn đoàn trong tủ sách khổng lồ của ba tôi nên tôi hình dung chị chính là những nhân vật trong các tác phẩm đó, chị là cô Mai trong Thừa tự, trong Nửa chừng xuân… Nhà tôi lúc ấy là một ngôi nhà lớn, trước nhà có sân rộng lát gạch tàu, ba tôi cho xây một hồ cá to và trồng một giàn thiên lí xanh mướt mắt. Tôi không bao giờ quên được hình ảnh chị Lê ngồi làm mứt gừng dưới giàn thiên lí lúc ánh sáng chiều chênh chếch len qua những kẽ lá xanh um chiếu trên khuôn mặt rám hồng vì sức nóng của bếp lò và ánh sáng phản chiếu của những viên gạch tàu. Trong tâm thức của một đứa trẻ mười hai tuổi, bỗng tự nhủ, mai sau tôi chỉ yêu người con gái nào giống chị Lê, phải giống từ khuôn mặt, dáng người cho đến những nét đảm đang rất Việt Nam như chi.
* * *
Rồi tôi lớn dần lên, đến tuổi biết yêu, tôi đi tìm bóng hình của chị qua những người bạn gái, nhưng không tìm thấy được. Xã hội càng lúc càng đổi thay, lính Mỹ vào Việt Nam làm đảo lộn mọi giá trị của cuộc sống, son phấn nhòe nhoẹt và đủ thứ thời trang kệch cỡm làm cho tôi khó mà tìm được người con gái như mộng tưởng. Những cuộc tình thời mới lớn cũng qua đi chẳng để lại ấn tượng gì.
Tôi vào Sài Gòn học đại học, cuộc sống tự lập của người con trai miền Trung ở Sài Gòn gặp quá nhiều khó khăn, tôi luôn mặc cảm về cái nghèo túng của mình nên chẳng dám yêu ai, thật ra tôi cũng khó tìm ra giữa Sài Gòn này một cô gái như mình đang tìm kiếm. Tôi như gã con trai đi tìm lá diêu bông không có thực trên đời. Cũng có nhiều cô gái đến với tôi, nhiều cô rất đẹp và giàu có, cũng có cô rất quí phái sang trọng, nhất là khi tôi bắt đầu có chút tiếng tăm và tiền bạc qua mấy lần triển lãm tranh và nhiều bài báo gây ấn tượng trong giới sinh viên. Nhưng sao tôi vẫn thấy dửng dưng, vẫn chưa thề nói với ai về tình cảm của mình. Tôi vẫn đi tìm một bóng hình không có thực, nhưng tâm tôi vẫn bảo hãy tìm đi và sẽ gặp, giống như điều Chúa đã dạy là hãy gõ cửa thì cửa sẽ mở. Tôi sẽ tiếp tục đi tìm và tôi sẽ tiếp tục gõ cửa suốt cuộc đời bởi tình yêu có sự lựa chọn riêng của nó.
* * *
Đội quân mới, chính quyền mới như một cơn gió lốc thổi nhanh giữa Sài Gòn, cuốn phăng đi mọi trật tự có sẵn, đảo lộn và đổi thay đến từng ngõ ngách, từng con người. Tôi cũng bị xoáy vào vòng xoáy đó, không kịp rút số tiền dành dụm được của những mấy năm cực nhọc vừa học vừa làm gởi ở ngân hàng. Tôi trở lại thời vừa mới vào đất này, trắng tay và đói rách, lại xếp hàng ăn những bữa cơm đạm bạc tập thể ở căn tin, chờ đợi những thay đổi mới. Ở thời kỳ đó, chẳng có việc làm gì rõ rệt, kẻ đi bán cà phê, người ra lập chợ trời, tôi không làm được những việc ấy nên ngày hai bữa lang thang với bạn bè văn nghệ của Sài Gòn cũ, làm những người rảnh nhất thế giới, chờ đợi.
Chúng tôi được phép đi học lại dù trước đó đã chuẩn bị ra trường, sinh viên từ nhiều trường tập trung thành trường Đại học Sư phạm thành phố, sinh hoạt hát hò và suốt ngày làm quen với đường lối, chủ trương và nền giáo dục mới. Học chuyên môn thì ít mà nhồi chính trị thì nhiều.
Tôi chẳng có hứng thú gì việc học hành bởi cái đói luôn hành hạ, hờ hững đến giảng đường mà chẳng chú ý đến ai, nhưng cũng phải ráng ghi ghi chép chép hi vọng nay mai được ra trường, có việc làm để ổn định cuộc sống, hướng tới tương lai. Tôi tham gia vào những sinh hoạt của nhà trường bằng những tài vặt đàn ca xướng hát, và cũng bởi rảnh quá chẳng biết làm gì cho hết thì giờ. Được sự gợi ý của chi đoàn, tôi thành lập nhóm kịch của khoa Văn, và ngay bữa họp đầu tiên của nhóm tôi đã gặp cô gái mang một cái tên là lạ: Trân Cầm. Trân Cầm học ở Văn khoa chuyển qua cùng lớp nhưng vì tôi chẳng để ý đến ai nên chưa gặp lần nào, hay có thể đã gặp mà không thấy. Cảm giác đầu tiên khi tôi nhìn thấy Trân Cầm là như có một chiếc búa lớn bổ vào ngực, đè nặng trái tim và nhịp tim tôi như ngừng lại, bởi cô ấy chính là lá diêu bông mà tôi đã tìm kiếm lâu nay. Vóc dáng ấy, đôi mắt ấy, giọng nói ấy, tiếng cười ấy, khuôn mặt ấy chính là những hình ảnh liên tục hiện về trong những giấc mơ của tôi. Khi ánh nắng buổi chiều chiếu vào cửa sổ hắt vệt sáng trên mái tóc buộc túm bằng chiếc kẹp đồi mồi và làm rực lên nửa khuôn mặt của Trân Cầm, thì hình ảnh chị Lê ngồi dưới giàn thiên lí trong tiềm thức tôi hiện lên rõ rệt. Thế là tôi đã tìm thấy. Tôi đã gõ cửa và Chúa đã mở cửa cho tôi bắt gặp định mệnh của đời mình. Tối hôm đó trở về nhà trọ, dù chẳng có gì bỏ bụng tôi vẫn ôm đàn hát nghêu nghao cho đến khi trăng tàn trên những vòm cây.
Mấy năm lưu lạc học hành ở miền Nam tôi làm đủ thứ nghề, từ bán báo đến sửa morasse nhà in, rồi trở thành người viết báo, trình bày báo, vẽ tranh, làm thơ, đi hát, diễn kịch… cũng để dành được một số tiền khá lớn, đủ để bảo đảm một cuộc sống sung túc, nhưng cứ nghĩ mình còn trẻ, lại chưa lập gia đình nên gởi hết vào nhà băng. Ai ngờ thời thế đổi thay, trong cơn cuống quít của chuyện ra đi hay ở lại, tôi không rút được đồng nào, từ triệu phú trở thành kẻ đói cơm giữa Sài Gòn đầy lộn xộn, phải bán luôn chiếc xe hơi vừa mới mua chưa đầy ba tháng với một giá rẻ mạt như cho, để tồn tại, nên chẳng còn phương tiện nào để di chuyển ngoài đôi chân mệt mỏi. May thay, từ khi quen với Trân Cầm, tôi thường dùng chiếc xe đạp của Trân Cầm để chở cô ấy đi học, đi về, đi sinh hoạt hát ca. Tôi không biết ngỏ lời với Trân Cầm như thế nào để tỏ hết lòng mình, nên thông thường tôi chỉ biết lắng nghe những câu chuyện buồn vui của cô ấy kể bằng một giọng Bắc kỳ Hà Nội di cư, một giọng kể nhẹ nhàng duyên dáng với những nhận xét thông minh, những tình tiết đầy nữ tính.
Một hôm sau buổi diễn kịch ở trường về, trời đã khuya, con đường Trương Minh Giảng vắng rộng thênh thang chỉ còn tiếng dế gáy bên vệ đường và hương ngọc lan từ những biệt thự đầu đường ngào ngạt trong gió đêm, một không gian thật lãng mạn cho những đôi tình nhân. Có lẽ không gian đó cũng làm cho Trân Cầm xao xuyến, Trân Cầm ngả đầu vào lưng tôi. Một cảm giác lạ lùng đến với tôi, một tín hiệu tốt của tình yêu chưa dám nói? Tôi muốn con đường dài ra mãi, đi hoài không tới, để tôi giữ mãi được giây phút thần tiên ấy, để chúng tôi là dấu chấm của đời nhau, được đi cùng nhau suốt cả cuộc đời. Sau này, liên tục mấy mươi năm, hôm nào đi qua cảnh cũ tôi cũng thường lái xe đi chậm lại để mong được hít thở hương ngọc lan bay rất mỏng, để nhớ cái đêm đầu tiên ấy, để hưởng lại cảm giác ngọt ngào và hạnh phúc của ngày xưa đã mất. Nhưng những cây ngọc lan xưa không còn ra hoa nữa và người xưa cũng như cánh chim bay xa tít.
Sau đêm đó, cả hai cũng chẳng có tín hiệu gì thêm nên chúng tôi vẫn là hai người bạn cùng lớp, cùng nhau trên một lối về.
* * *
Tháng Sáu, Trân Cầm muốn ghé qua nhà trọ của tôi cho biết cuộc sống của những kẻ xa nhà. Khi chúng tôi vừa bước chân vào căn gác nhỏ thì trời đổ mưa như trút, mưa tháng Sáu của miền Nam, mưa tháng Sáu của Sài Gòn. Chúng tôi đứng nhìn mưa qua cửa sổ, những hạt mưa bay làm ướt nhè nhẹ trên khuôn mặt của hai đứa, và chúng tôi chụm đầu vào nhau, hai bàn tay không hẹn mà tìm nhau nắm chặt, hai bàn tay nóng bỏng giữa chiều mưa. Cái hôn đầu tiên đến quá bất ngờ nên cả hai đều sượng sùng khi nhìn vào mắt nhau, đôi mắt trong veo hình như ánh lên câu hỏi, trời vẫn mưa xối xả, chúng tôi quên mất đất trời chạy xuống cầu thang đội mưa đi, mưa ướt đẫm trên khuôn mặt, ướt hết hai tấm thân gầy, hai đứa lâu lâu lại nhìn nhau cười dưới cơn mưa như những người mất trí. Đó là nụ hôn đầu tiên và duy nhất của chúng tôi dành cho nhau suốt cả một cuộc tình dài. Khi nhìn Trân Cầm đạp xe đi về, bầu trời u ám, những dây điện giăng ngang cắt nát mảnh trời, dáng mong manh của Trân Cầm nổi lên khung trời xám đó như cánh chim nhỏ nhoi đang cố bay lên. Tôi buột miệng hát một đoạn trong bài Như cánh vạc bay của Trịnh Công Sơn: "Nắng có hồng bằng đôi môi em. Mưa có buồn bằng đôi mắt em. Tóc em từng sợi nhỏ rớt xuống đời làm sóng lênh đênh… Vai em gầy guộc nhỏ như cánh vạc về chốn xa xôi… " Từ đó tội gọi Trân Cầm là Vạc, bởi em gầy với áo lụa bay, và cũng bởi tôi rất yêu cánh vạc, những con vạc mảnh mai bay về trong ánh mặt trời là hình ảnh thanh thoát và lãng mạn. Cũng từ đó cho đến nay, trải qua biết bao nhiêu biến cố, biết bao nhiêu đổi thay, tuổi càng ngày càng chồng chất, nhưng cứ đến những cơn mưa đầu mùa tháng Sáu hàng năm tôi lại đội mưa đi lang thang, đi trong mưa để nhớ ngày mưa tháng Sáu ngày xưa, tháng Sáu có ngày sinh nhật của Trân Cầm; và để nhớ về loài chim vạc, nhớ về nụ hôn duy nhất của một cuộc tình buồn.
Những buổi học sau đó là những ngày vui, tôi không còn hờ hững với giảng đường và bài giảng nữa, bởi đã có động cơ để tôi phải cố gắng, và những giờ học là dịp để được gặp nhau, để chào đón nhau, gởi cho nhau những bài thơ viết vội, hoặc những lời nhắn gởi vu vơ. Nhưng cũng từ bữa ấy, những đôi mắt sau lưng chúng tôi hình như có chứa đựng những ánh mắt ganh ghét, đố kỵ, lúc đầu còn kín đáo nhưng càng ngày càng lộ rõ. Tôi hồn nhiên sống và hồn nhiên yêu, không hình dung ra những đợt sóng ngầm đang chuẩn bị để vùi dập mình xuống tận đáy của cuộc đời. Tôi cũng không nghĩ tới cái ác của con người, chỉ nghĩ tới thiện tâm và không nghĩ rằng trên đời này lại có thể có những con người lúc nào cũng tính toán, âm mưu để xé xác đồng loại, để gài bẫy bạn bè. Tôi vô tư nên không nghĩ tới những hậu quả đang chực chờ đẩy tôi đến ngả rẽ làm thay đổi cả đời tôi.
Sau kỳ thi tốt nghiệp, chúng tôi phải đi một chuyến lao động ở nông trường, sống một tuần lễ với một đơn vị Thanh niên xung phong. Tôi chỉ tham dự chuyến lao động thực tế này đúng một ngày một đêm, bởi hồi ấy tôi còn tham gia vào đội kịch của thành phố, chuyến lưu diễn của đoàn trùng với thời gian đi lao động. Đêm ở lại duy nhất tại nông trường, tôi chỉ một lần nắm tay của Trân Cầm trong giấc ngủ, bởi chúng tôi ở cùng chung một lán trại.
Lao động xong, chúng tôi được nghỉ hè chờ quyết định phân công công tác. Chúng tôi ít được dịp để gặp nhau, tôi suốt ngày lang thang ở sân trường lượm những chiếc lá vàng đề những câu thơ để tặng cho cánh chim Vạc của tôi, nhưng ít khi được gặp. Khi làm hồ sơ để ra trường, trong mục nguyện vọng, tôi mong được phân về dạy ở một thị trấn nhỏ miền núi, tôi hình dung ra một thị trấn cao nguyên, đầy những rừng chè và sương trắng. Và mỗi tuần tôi lại đến đợi Trân Cầm dưới chân đồi, cùng nhau dạo trong trảng cỏ đầy hoa dại và gió lạnh, Trân Cầm sẽ mang chiếc áo ấm màu rượu chát, chiếc kẹp đồi mồi giữ tóc không bay và chiếc khăn quàng ôm kín bờ vai gầy. Tôi hạnh phúc trong giấc mơ tưởng tượng.
Giấc mơ đẹp không thành sự thật, lần lượt bạn bè đều nhận được quyết định, chỉ mình tôi, Trân Cầm và vài người có lí lịch xấu không được đoái hoài, không một lời thông báo. Tôi bắt đầu tuyệt vọng trong sự đợi chờ, lúc ấy, đối với tôi lúc ấy việc được đi dạy học là con đường tốt nhất, bởi đó là ước mộng của tôi khi chọn trường sư phạm, và cũng là việc làm duy nhất có thể cứu tôi ra khỏi cảnh lông bông. Tôi ngu ngơ không hiểu được rằng còn có quá nhiều con đường khác để đi, còn rất nhiều nghề khác để chọn. Tôi hoang mang không hiểu lí do nào đã không cho phép tôi và Trân Cầm không được phân công tác. Phong phanh có dư luận cho rằng tôi và Trân Cầm phạm vào một lỗi rất nặng, nhưng chẳng có ai trả lời cụ thể tội gì, chỉ có những cặp mắt hả hê, những cái nhìn hằn học có cả những thái độ xa lánh làm cho tôi càng lúc càng bế tắc. Tôi quá dại khờ và hồn nhiên không nghĩ đến việc có ai đó đã rắp tâm hại mình và càng không nghĩ đến việc cả một nhóm người đang hè nhau để xô chúng tôi xuống bùn đen bằng những tội lỗi mà mình không bao giờ mắc phải. Một hôm, lúc đang lang thang ở sân trường, tôi gặp Hoàng, một bạn học cùng lớp, hắn rủ tôi vào quán cà phê, và rồi bằng một ánh mắt thương hại hỗn xược, những ngôn từ tiểu thuyết rẻ tiền hắn cho tôi biết hắn và Trân Cầm đã yêu nhau, rằng hai người đã có những thề ước hẹn hò, hắn chìa cho tôi xem nhiều mảnh giấy trong đó có chữ của Trân Cầm và bảo đó là những bức thư nàng gởi cho hắn trong suốt tuần lễ lao động ở nông trường, hắn khuyên tôi nên quên cô ấy đi, hãy về quê kiếm một việc làm khác mà sống vì hắn chắc chắn rằng, tôi sẽ không bao giờ được phân công và tỏ lòng xót xa cho cảnh ngộ của tôi. Tôi hèn nhát đến độ ngồi im cho hắn nói. Rồi lặng lẽ ra về với một chút hoài nghi. Tôi tin Trân Cầm, nhưng tôi cũng hơi tin những lời lẽ của Hoàng, bởi hắn nói với một thái độ hết sức tự tin và những vật chứng rõ ràng. Tôi đau khổ viết cho Trân Cầm một bức thư dài như một lời từ giã, một bức thư kể hết lòng mình. Tôi dự định sẽ lên cao nguyên, ẩn mình chờ cuộc đời trôi đi để quên hết. Tôi không nghĩ đến chuyện về quê, bởi không lẽ sau năm năm ra đi lại trở về ăn bám gia đình, trở thành một thằng vô nghề nghiệp, làm xấu một gia đình có nề nếp, có tiếng tăm trong thị xã nhỏ bé. Tôi đang đến bờ vực của kẻ cùng đường. Mối tình đẹp đẽ sau năm tháng kiếm tìm đã mất, người con gái mà từ tuổi mới lớn, tôi đã tâm nguyện sẽ đi tìm cũng bỏ tôi mà đi, công lao học hành trong khó khăn giờ đây đã bị khước từ một cách khó hiểu, tôi cô đơn gặm nhấm nỗi đau. Trân Cầm gởi trả bức thư dài của tôi không một lời giải thích, tôi càng đau hơn khi chính Trân Cầm đã cắt thêm nhát dao vào vết thương của tôi, tôi đâu ngờ rằng Trân Cầm lúc ấy cũng đang là một nạn nhân của một màn kịch bỉ ổi và đê tiện.
Có nhiều đêm tôi nằm mơ toàn những cơn ác mộng, tôi mơ tôi đang đi với Trân Cầm trong một thung lũng đầy hoa và bướm, bỗng dưng có một nhóm người, toàn là bè bạn nhảy vào xô tôi ngã xuống, đâm tôi bằng những nhát dao, tôi sắp ngất đi, ngửa mặt giữa trời xanh hiện lên hình ảnh của Trân Cầm nhìn tôi bị dày xéo một cách dửng dưng, tôi không đau nỗi đau thân xác, tôi đau vì ánh mắt lạnh nhạt của Trân Cầm. "Lẫn trong cái chết vẫn còn nỗi đau".*
Tôi được gọi vào phòng tổ chức gặp một ông thầy hom hem nhìn tôi chằm chặp, ánh mắt không có chút hứa hẹn điều gì tốt đẹp. Ông lơ đãng giở từng trang giấy trong đống hồ sơ dày cộp, đọc lẩm bẩm đôi dòng rồi ngước cặp mắt giễu cợt nhìn tôi. Tôi hồi hộp đợi chờ câu hỏi của ông, nhưng hình như ông không vội. Tôi như kẻ tội đồ đang đứng trước vành móng ngựa chờ tuyên án. Cuối cùng thì ông cũng buông được một câu: Cậu không thể đi dạy học được, hãy lập gia đình và kiếm lấy nghề khác mà sống . Tôi ngạc nhiên tột độ, tôi không hiểu gì cả.Tôi ngây người nhìn ông, ông đưa tay ngoắc ngoắc, ra dấu tôi về. Tôi sững lại một giây, rồi ngoan ngoãn trở ra cửa không một lời thưa. Gió ở đâu thổi về ào ạt, tôi đi lên dốc cầu Trương Minh Giảng, đứng nhìn xuống dòng nước đen ngòm đầy rác rưởi, đầu óc rối tung lên. Câu nói của người cán bộ phòng tổ chức có nghĩa gì? Sao lại khuyên tôi lập gia đình? Sao tôi lại không thể dạy học được. Tôi học tốt, bài làm ra trường rất tốt, khả năng diễn đạt của tôi cũng rất khá. Vậy tại sao tôi lại không thể. Tôi miên man với nhiều câu hỏi không có cách trả lời. Tôi nhìn dòng nước đen rồi hình dung đời mình rồi cũng sẽ như dòng nước kia, đen kịt vì tù đọng và hôi thối. Và rồi tôi cũng ý thức được rằng, tôi đã bị từ chối, người ta đã không chấp nhận tôi vì một lí do bí ẩn nào đó, chứ không phải vì khả năng hay do kết quả học tập của tôi. Gió lại thổi dữ dội, rồi những cơn mưa nặng hạt trút xuống. Tôi dầm mưa đi suốt con đường, con đường có rất nhiều ngả rẽ, nhưng không có ngả nào dành cho tôi, tôi đi mãi cho đến khi đường vắng không còn một bóng người qua rồi ngã gục trước hiên của một ngôi nhà lạ vì lạnh và đói.
* * *
Tôi gặp Trân Cầm trên sân trường đầy nắng, những cánh phượng đỏ như những giọt máu rỏ xuống sân trường, Trân Cầm hình như muốn tránh mặt tôi, ngôn từ mang tính xã giao, xa lạ, nụ cười không còn tươi trên mặt nàng, đôi mắt như có khói, buồn lặng lẽ. Chúng tôi chia tay trước sân trường không một lời chào. Hình như giữa chúng tôi đang có một bàn tay vô hình ngăn chặn. Tôi lại một mình đi lại những con dường chúng tôi đã từng đi qua, đi dưới những con đường có hàng dây điện giăng ngang cắt nát trời chiều. Cánh Vạc đã bay về, một mình với đôi vai gầy. Tôi biết đi đâu, cũng chỉ còn một mình nhìn quanh chỗ nào cũng chứa đầy kỷ niệm, tôi liêu xiêu một bóng đến con hẻm hun hút gió của nhà nàng. Và tôi gặp hắn - thằng Hoàng -ngay cửa ngõ nhà Trân Cầm. Ngôi nhà có giàn cây huỳnh hoa vàng rực rỡ. Hắn đứng đó, bên cạnh Trân Cầm, hình như hai người đang vui. Hình như có một nụ cười đang hiện ra trên khuôn mặt nàng. Hoàng có vẻ toại nguyện, hắn chào nàng bằng cái vẫy tay. Tôi nhìn lên những cánh hoa vàng trước ngõ nhà Trân Cầm, những cánh hoa vàng rực, vẫn những cánh hoa hôm trước nhưng hôm nay thấy chúng mới vô duyên, trơ trẽn làm sao? Tôi là người thua cuộc, trong cuộc chơi, kẻ thua cuộc phải rời vị trí, đó là qui luật. Tôi trở thành kẻ đứng xem cuộc đời tiếp tục, đó cũng là điều đúng với qui luật.
Thế là chúng tôi mất nhau, sao kết thúc lại nhạt nhẽo đến thế. Chúng tôi lặng lẽ xa nhau không một lời giải thích, cũng chẳng do một lí do nào. Một kết thúc vô lí, đến hàng chục năm sau tôi vẫn thấy vô cùng phi lí.
Trở về gác trọ, đầu tôi ngổn ngang nhiều câu hỏi. Tôi sẽ phải làm gì đây? Tôi sẽ đi về đâu đây? Khi tất cả mong ước, khi những giấc mơ nhỏ nhoi cũng không đạt được. Tôi đã phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn mới gắng gượng đến lúc được ra trường. Những ngày đến lớp đói quặn lòng, những tuần lễ sống chỉ bằng nước lã và khoai lang, những đêm mưa trong căn gác không đủ che những cơn gió giật, chỉ có tình yêu của Trân Cầm đã làm cho tôi hi vọng, bởi đời còn có Trân Cầm nên tôi còn nghị lực để đến trường và tin rằng lúc ra trường cuộc sống sẽ đỡ hơn, bởi tôi chỉ cần cuộc sống bình thường, tôi đã mất hết số tiền lớn vì những thay đổi của thời cuộc, nên chẳng tin có ngày mình sẽ làm lại được như xưa. Nhưng tôi đã bị từ chối, người ta đã lấy cắp ước mơ của tôi, tôi sẽ không có được những buổi chiều cuối tuần đón đợi dưới chân đồi, tôi sẽ không bao giờ được trở về cùng với Trân Cầm trong đồng cỏ đầy hoa dại, sẽ không có dấu chấm nào để đặt dấu cuối cùng cho một tình yêu. "Gió đã thổi chiếc khăn quàng xuống cỏ, nụ cười xưa đã tắt dưới chân đồi. Tôi bất lực bị đời xô ngã quị, cuộc tao phùng còn li biệt mà thôi".**
Tôi bỏ mất năm ngày ngồi ở nhà xếp năm trăm con Vạc giấy, những con Vạc nhỏ nằm ngổn ngang giữa sàn nhà trước cặp mắt ngạc nhiên của đám bạn cùng phòng, tôi cắn chặt răng xếp cho đến khi mấy đầu ngón tay sưng phồng, tóe máu, mất hết cảm giác. Những con Vạc lần lượt ra đời lẫn với những vết máu của tôi, những cánh chim tôi yêu và là hình ảnh của Trân Cầm. Nhưng rồi tôi chất các con Vạc giấy thành một đống lớn, châm lửa đốt. Lửa cháy, những cánh Vạc thành tro tàn bay trong buổi chiều u ám chờ mưa. Tôi cứ tưởng sẽ là quên được hết trong ngọn lửa ấy, nhưng không ngờ bóng Vạc mãi bay trong tôi suốt cuộc đời.
Buổi chiều cuối năm, nhìn gia đình hàng xóm đang quây quần sum họp trong nhà, bất giác tôi thèm một hơi ấm gia đình mãnh liệt, đứa con đi hoang bỗng dưng chạnh lòng nhớ tới ngôi nhà xưa, ở đó đang có cha mẹ, các em vây quanh chiếc bàn ăn tối, có không khí đầm ấm và những ánh mắt cảm thông, tôi thèm một gia đình. Và từ buổi chiều nhớ nhà, cần một hơi ấm sẻ chia những thất vọng, cần có nơi chốn để đi về, để quên đi những mơ ước cũ, quên đi hình bóng tôi đã mang theo từ thuở còn rong chơi, quên đi những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời mình, quên đi những cơn mơ dữ, tôi đi đến quyết định làm thay đổi đời mình: lấy vợ. Tôi muốn làm một con người khác, tôi muốn rũ bỏ tôi xưa, tôi sẽ không còn là tôi nữa, tôi bỏ lại ngàn cánh Vạc trên bầu trời mơ ước cũ, bỏ luôn những kỷ niệm và ước mơ của một thời ngây dại. Người tôi lấy làm vợ là cô gái đã cứu tôi trong buổi chiều tôi đi trong mưa và ngã quị trước hiên nhà cô ấy. "Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa, mộng trùng lai không có bao giờ".***
* * *
Khi chuyện cưới hỏi đã xong, tôi gửi đơn xin cứu xét trường hợp của tôi tới phòng tổ chức. Tôi làm việc này theo sự gợi ý của một cô bạn học cùng khóa vô tình gặp trên sân trường. Cô bạn này đang có quan hệ tình cảm với ông hiệu phó, nên có điều kiện để giúp đỡ tôi toại nguyện. Kết quả đến nhanh hơn tôi tưởng, tôi cầm được quyết định phân công tác đi về vùng tận cùng của đất nước. Dù không được đến vùng cao nguyên như mong đợi, nhưng tờ giấy đó đã đem đến cho tôi niềm vui khôn xiết, chỉ có điều không có Trân Cầm để chia vui với tôi, để được nói lời chia tay với nàng.
Nhưng suốt ba tháng trường, không biết bao lần tôi lên xuống tỉnh lỵ heo hút đó trong thời điểm xe cộ đi lại rất khó khăn, Sở giáo dục của tỉnh không có một dấu hiệu gì đả động đến việc trình diện của tôi. Ngày hai bữa báo cơm tập thể, đi ngu ngơ khắp thị trấn nhỏ bé, chẳng có ai hỏi han đến mình. Tôi lại bắt đầu lâm vào một ngõ bí mới. Khi tất cả trường học đã khai giảng gần hai tháng rồi, không kiên nhẫn được nữa tôi xin gặp cán bộ phụ trách ở sở. Tiếp tôi là một đồng chí nữ nhỏ bé, mặc chiếc áo bà ba và chiếc quần đen ngắn đến mắt cá chân. Sau một hồi hỏi chuyện bâng quơ, bà ta bảo với tôi bằng một thái độ rất nghiêm nghị: Sở chúng tôi rất cần những giáo viên được đào tạo chính qui như anh, nhưng sở không thể nhận một giáo viên có tư cách như anh được. Tôi ngạc nhiên: nhưng thưa, tôi đã tốt nghiệp với đầy đủ các môn học, tôi không vi phạm chính trị, tôi không chống đối lại đường lối, chính sách của nhà nước, thế tại sao tôi lại không đủ tư cách để dạy học. Bằng cái nhìn soi mói pha lẫn khinh rẻ, bà cao giọng: Anh có đủ trình độ để dạy học nhưng anh không đủ đạo đức để làm người thầy. Tôi bắt đầu thấy máu nóng bốc lên mặt: Sao lại không đủ đạo đức… Không đợi tôi nói hết câu, bà cán bộ rút từ trong ngăn kéo ra một bọc hồ sơ, đẩy đến trước mặt tôi và nói với giọng có vẻ dịu hơn: có lẽ anh không biết thật, vậy thì tôi nói rõ cho anh biết, trong hồ sơ của trường sư phạm chuyển về, có một biên bản của một buổi họp gồm hơn chục trang giấy kết luận anh đạo đức hạng C, là hạng không thể chấp nhận ngoài xã hội chứ đừng nói ở trong nhà trường xã hội chủ nghĩa. Anh bị lên án là có quan hệ nam nữ bất chính, không trong sáng trong quá trình học tập, là người kiêu căng, tự mãn, có tư tưởng chống đối tập thể.
Tôi há hốc miệng, không nói được câu nào, máu nóng không biết từ đâu trào lên làm cho mặt nóng bừng như có lửa. Tay nắm chặt tôi giơ lên định đấm mạnh xuống bàn, nhưng tôi kịp trấn tĩnh, bàn tay kịp dừng lại. Bây giờ thì tôi đã hiểu hết, đã nhìn thấy được hết, đã biết được mọi nguyên do. Mối tình đẹp như bài thơ của chúng tôi bị kết án là cuộc tình bất chính, không trong sáng. Những lời góp ý, phát biểu để hiểu hơn bài giảng trong sinh hoạt chính trị của tôi là những tư tưởng chống đối mọi người. Thế thì cuộc đời này còn có chi là đẹp đẽ, có chi là trung thực. Mọi giá trị đã bị đảo lộn, mọi qui ước đã bị đổi thay. Nhân danh ai, nhân danh cái gì để kết án chúng tôi. Suốt cả cuộc tình chúng tôi chỉ một lần hôn phớt môi nhau trong buổi chiều mưa tháng Sáu, chỉ một lần cầm tay trong giấc ngủ ở nông trường, đó là bất chính, là phạm vào điều tối kỵ sao?  Bỗng dưng tôi chợt nhớ có một câu thơ rất hay: "Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người".**** Sao chúng tôi yêu nhau lại bị tước mất quyền làm người tử tế? Chúng tôi cố giữ cho cuộc tình thật thánh thiện, thật đẹp đẽ lại bị loài người gán cho là mối quan hệ không trong sáng, bất chính, phải hủy diệt, phải chối từ, phải bị lên án.
Tôi được đọc chục trang biên bản đó, đó là buổi họp chi đoàn khoa Văn. Người chủ trì, những người tham dự đều là những người bạn học chung lớp, những người hàng ngày chứng kiến cuộc tình của chúng tôi, những người hàng ngày ngồi chung bàn, cười chung chuyện với chúng tôi. Bây giờ họ trở thành những quan tòa tố cáo, kết án chúng tôi. Lúc này tôi càng hiểu hơn những ánh mắt hằn học, đố kỵ thường lóe lên sau lưng tôi. Họ nhân danh đạo đức khi họ đang làm chuyện phi đạo đức. Họ thêm thắt, thêu dệt những điều không có, họ gán cho tôi những tội lỗi mà tôi không hề phạm, những tội lỗi mà tôi chưa hề nghĩ đến, nói chi chuyện thực hiện. Họ tưởng tượng ra cảnh chúng tôi hò hẹn với nhau trong những đêm ở nông trường, xa lánh mọi người để hưởng thụ xác thân với nhau trong nhiều đêm đi lao động, sao họ không biết rằng thời gian đó tôi không có mặt ở nơi người ta dựng lên cảnh giả, lúc đó tôi đang ở một tỉnh lỵ xa nơi đó hàng trăm cây số. Thương cho Trân Cầm, nếu cô ấy biết được chuyện này, Trân Cầm làm sao chống chọi được với dư luận khắc nghiệt, làm sao chịu được mối oan khiên này. Tôi đã hiểu được sao mắt Trân Cầm như có khói, nguyên do nàng cố tránh tôi. Trân Cầm đang cố tránh những lời dị nghị, những dư luận bắt nguồn từ một vở bi hài kịch. Một vở kịch rất tồi nhưng mọi người đều cố tin và cùng nhau vỗ tay. Họ có nghĩ gì không khi buông lời kết án một con người, họ có nghĩ tới một hậu quả vô cùng tai hại khi họ gieo xuống một mầm ác, họ nghĩ gì khi xô người khác xuống bùn đen. Tôi hiểu và thông cảm thái độ và quyết định của người cán bộ sở. Họ là người chỉ biết căn cứ vào biên bản, vào những báo cáo. Và khi tiếp nhận báo cáo như vậy thì ai có thể dám nhận một người đạo đức hạng C như tôi làm giáo viên để giảng dạy cho thế hệ trẻ.
Tôi trở về thành phố ngay trong đêm với bọc hồ sơ người cán bộ tin tưởng giao cho. Bọc hồ sơ hơn chục trang đầy kín chữ chứa những lời kết án đã đóng tôi vào thập tự.
Sau nhiều lần tìm đủ mọi cách để được gặp cán bộ phòng tổ chức, nhiều lần dùng đủ mọi lý lẽ, mọi bằng chứng chứng minh mình là người bị oan khuất, những lời kết tội là không đúng sự thật, tôi đã được bố trí về dạy học ở một trường xa tít ở ngoại thành.
* * *
Con đường đến trường thật lắm gian nan, sau gần năm tiếng đồng hồ chuyển từ xe buýt qua xe lam, rồi lên xe ngựa, rồi một chuyến xe lam nữa đi qua nhiều chiếc cầu nhỏ, nhiều đồng lúa trơ gốc rạ tôi mới đến được ngôi trường. Đó là những dãy nhà thấp lè tè lợp tôn, vách tường nham nhở những vết thương. Sân trường đọng những vũng bùn với hàng cây điệp vàng quắt queo, hàng cây bã đậu xù xì gai góc. Đêm đêm tiếng ễnh ương kêu buồn não nuột. Nhưng tôi rất vui vì đã được đón nhận. Có lẽ người ta đã hủy bản án của tôi rồi, tôi nhủ thầm sẽ cố gắng phấn đấu để chứng minh rằng tôi vẫn là người còn có ích, tôi sẽ cố gắng dạy học và sống thật tốt để minh chứng cho cuộc đời thấy rằng những lời kết tội kia là những điều dối trá. Dù thời gian đầu gần sáu tháng, tôi không được lãnh lương, hàng tháng tôi chỉ lãnh được vài kí gạo độn bo bo, người ta muốn dò xét, hoặc thử lòng tôi chăng? Những năm tháng đó là giai đoạn khó khăn về kinh tế của cả nước, bữa cơm tập thể luôn độn bo bo hoặc bột mì, món ăn quanh năm là tô canh rau hay bầu bí lỏng bỏng nước và miếng cá tanh tưởi , nát nhừ, ươn thối. Những ngày ấy tôi sống không ham muốn, không lo âu, chỉ biết làm việc và cống hiến. Tôi chấp nhận cuộc sống ở miền quê này, tìm thấy niềm vui trước những tình cảm rất chân thật của các học trò nhỏ. Tôi xung phong dạy hết ba cấp lớp, dạy suốt tuần không nghỉ mong quên được hình bóng của Trân Cầm, hình ảnh của mối tình đã mất. Quên đi cay đắng cuộc đời dành cho.
Đôi khi, trong mùa đi chấm thi, tôi cũng có gặp Trân Cầm, chúng tôi cũng có nhiều câu chuyện để nói với nhau, nhưng rồi mỗi đứa lại đi mỗi ngả, để lại trong tôi nhiều nỗi nhớ hơn. Tôi ở đấy gần năm năm, gần như không biết những đổi thay của thế giới, bởi không điện, không truyền hình, truyền thanh, thỉnh thoảng chỉ đọc một vài tờ báo cũ. Tôi như người tù nhân tự nguyện bị giam lỏng nơi chốn xa xôi, xa nền văn minh đương đại. Bạn bè tôi ở thành phố không gặp được tôi nên một số cứ đinh ninh tôi đã vượt biên, bởi lúc này phong trào vượt biên rầm rộ lắm. Tôi trở thành anh nhà quê ngơ ngác khi có dịp về chốn thị thành, mà thật ra chốn thị thành thì cũng nghèo nàn, thiếu thốn, mọi người ai cũng lao lực kiếm ăn, chỉ biết làm sao để có ăn cho no là hạnh phúc. Hạnh phúc là được mua được tấm vải, chiếc vỏ xe, lạng thịt theo giá phân phối. Hạnh phúc rất giản đơn. Còn tôi thì cứ quắt quay tìm kiếm một thứ hạnh phúc xa vời không có thực.
* * *
Những khó khăn trong cuộc sống, những mâu thuẫn gia đình càng ngày càng lớn dần lên đưa tới kết cuộc là vợ chồng tôi phải đi tới cảnh chia tay, tôi trở lại cuộc sống độc thân, lại ngày ngày nhận thau cơm ở bếp ăn tập thể, lại hàng đêm đối diện với bóng mình. Nhưng ở nơi xa xôi này, người ta vẫn chưa quên chuyện cũ, đã có lần chuyện đạo đức hạng C của tôi lại được đem ra bàn cãi, đó là lúc chi đoàn định kết nạp đoàn viên cho tôi. Qúa khứ đó cộng với việc tôi vừa ly dị đã khiến cho mọi người không đồng ý cho tôi cùng đứng chung hàng ngũ, tôi vẫn là người có không đủ đạo đức để tiến lên. Tôi cũng chẳng lấy chuyện đó làm buồn, bởi tôi hiểu mình đã bị vết chàm bôi bẩn, dễ gì được tẩy trắng lại đâu. Tôi chỉ mong sự bình yên.
Đủ thời gian công tác ở ngoại thành, tôi được trở về thành phố. Trân Cầm lập gia đình khi tôi vừa có quyết định li hôn. Âu đó cũng là số trời, bởi chúng tôi có duyên gặp nhau nhưng không có nợ để trói nhau. Tôi cầu mong cho Trân Cầm được hạnh phúc, có lẽ chúng tôi sẽ không nên gặp nhau nữa, mỗi người đã có một phần số của mình.
Tôi cố thu mình lại để sống, lạnh nhạt với mọi người, xa lánh chốn đông vui, một mình gặm nhấm những éo le và bất hạnh. Nhiều đồng nghiệp nữ có cảm tình với tôi, có lẽ do sự lạnh lùng xa cách không giống ai khiến họ tò mò muốn tìm một cuộc phiêu lưu, khám phá. Nhưng tôi không cùng tham dự được bằng trái tim nguội lạnh với con người.
Rồi Trân Cầm đi xa, tôi biết tin này chỉ một ngày trước khi nàng bay. Tôi viết vội vài dòng thay cho lời đưa tiễn. Ngày Trân Cầm đi, tôi đến sân bay kiếm góc kín đứng nhìn nàng lặng lẽ. Và khi nàng bước ra máy bay, tôi lên phòng lầu dành cho khách tiễn đưa nhau, nhìn xuống sân bay mênh mông, tìm một khung cửa sổ, buộc vào một chiếc khăn bay trong gió và hi vọng rằng từ khung cửa máy bay Trân Cầm sẽ nhìn thấy chiếc khăn như bàn tay vẫy vĩnh biệt. "Môi cười ở cuối sân ga, chùm bông tuyết mỏng pha màu vĩnh ly".***** Ở đây trưa nắng, không có tuyết, nhưng sao tôi thấy lạnh vô cùng. Thế là từ nay tôi sẽ không bao giờ gặp Trân Cầm được nữa. Chiếc khăn đã bị gió cuốn đi. Dòng đời cũng đã cuốn chúng tôi đi. Vĩnh biệt!
Từ ngày đó, khi đi đường, tôi cứ khao khát tìm theo những người như có dáng như Trân Cầm, những người tóc xõa, vai gầy, đi guốc mộc, đội nón lá, hi vọng tìm được Trân Cầm giữa phố đông, để chào nhau giữa con đường, để cho nhau nụ cười giữa phố phường ngựa xe. Nhưng hình bóng đó không còn tìm thấy được bởi người đã đi xa, mà phố xá bây giờ có ai dùng nón lá và guốc mộc. Ngỡ như là tuyệt vọng.
Nhưng rồi Trân Cầm lại trở về, với mái tóc bạc trắng vì những ngày tháng cực nhọc nơi xứ lạ. Tôi gặp Trân Cầm giữa phố, nỗi mừng vui pha lẫn chút xót xa. Cuộc hạnh ngộ rất ngắn nhưng làm cho tôi quá sững sờ. Dấu thời gian đã bắt đầu hiện diện trên nhan sắc. Hòn đá lăn không đóng rêu, thời gian làm rong rêu những bậc  thềm vắng. Thời gian làm rong rêu trái tim tôi, trái tim tù đọng mệt mỏi vì yêu người. Cả hai chúng tôi đã bắt đầu của tuổi già. Nhưng vẫn chưa được yêu nhau trọn vẹn.
* * *
Tôi từ bỏ nghề giáo, nhảy vào nghề buôn, bởi nghề buôn chỉ cần chữ tín, người ta không xét lí lịch, thương trường không xét đạo đức hạng nào mà chỉ cần anh năng động và biết nắm bắt cơ hội. Tôi buôn bằng chất xám của mình, lấy tim óc đổi thành tiền bạc, lấy tiền bạc đổi thành ngựa xe, nhà cửa. Tôi trở thành anh nhà giàu trong thời kỳ đổi mới. Tôi lại có chức danh, có nhiều kẻ xoay quanh xu nịnh, có nhiều thứ trong tay, chỉ thiếu có tình yêu của Trân Cầm. Tôi chạy theo cơn lốc làm giàu suốt một thời gian dài, bỗng có lúc ngồi nhìn lại, trái tim bệnh hoạn mệt mỏi của tôi lên tiếng, nỗi khát khao về ngôi nhà trên đồi nhìn xuống cánh đồng hoa vàng trên thành phố đầy sương trắng của ngày xưa lại cháy bỏng trở về. Tôi lên Blao, mua trang trại này, trồng những khóm hoa vàng trên đồi, như để ghi nhớ một cuộc tình thời tuổi trẻ, một mối tình sẽ đi mãi suốt cuộc đời tôi. Một cuộc tình lãng mạn kéo dài qua hai thế kỷ.
* * *
Mới đây, tôi đọc được những bài viết của Trân Cầm ghi lại những ngày tháng năm nàng làm việc ở xứ người, những nỗi cô đơn, nhớ quê nhà của cô ấy, bỗng tôi chợt có ý nghĩ lãng mạn cuối cùng, tôi sẽ bay qua xứ lạ đó. Tôi sẽ đi trên những con đường Trân Cầm đã đi, thở không khí Trân Cầm đã thở, để nghe trong bão cát vàng, trong gió tuyết những nỗi cô đơn của một kẻ xa nhà, để chia sẻ nỗi buồn của kẻ tha hương. Tôi sẽ đi nhìn những chiếc lá đỏ, những chiếc lá nàng đã từng nhìn, những cây phong lá đỏ của rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Tôi sẽ đứng nghe gió thổi, những ngọn gió đã từng thổi qua người nàng. Tôi sẽ đến ngôi chùa xưa trên dốc núi, sẽ ngồi trên phiến đá nàng đã từng ngồi, nghe tiếng chuông chùa lặng lẽ giữa thinh không. Để cảm nhận được rằng, thế gian này có đó rồi mất đó. Sắc sắc không không.
Tôi không có được Trân Cầm trong cuộc sống lứa đôi, nhưng tôi đã có nàng trong mộng tưởng.
Tiếng chuông chùa sẽ cho tôi quên đi tục lụy, quên đi những ác tâm đã làm cho chúng tôi xa cách ngày xưa, quên hết mọi người để chỉ còn hai đứa chúng tôi, lại đi trong mưa trong mùa mưa tháng Sáu.
Thuở mới quen nhau. Trân Cầm có chép cho tôi bài thơ, trong đó có câu: Có trầu mà chẳng có cau, Thì đành không đỏ môi nhau kiếp này. Thật vậy, có trầu không cau đúng là quá vô duyên, tôi cũng quá vô duyên khi tưởng tượng đến một cuộc dầm mưa giữa tuổi năm mươi, khi cả hai đã bị dấu vết thời gian làm cho mệt mỏi, khi cuộc đời đã quật cho đến mệt nhoài. Nhưng hàng năm vẫn có tháng Sáu, và tháng Sáu vẫn có những cơn mưa.
Thế nhưng chuyến đi của tôi đã không thực hiện được, khi hành lí đã chuẩn bị xong, chiếc vé máy bay đã nằm trong túi áo, mùa thu lá đã vàng thì tôi nhận tin Trân Cầm vừa qua đời bởi một cơn bệnh bất ngờ. Cái chết đến đột ngột như một cơn gió độc thổi qua cõi trần gian này. Tôi không tiễn được nàng về chốn xa xôi ấy. Tôi không được mang những bông hoa cẩm chướng trắng mà nàng rất ưa thích đến bên tấm hình hài đã bất động rồi. Chúng tôi cũng chẳng có một đoạn đường ngắn ngủi để tiễn đưa nhau. Tôi đốt chiếc vé máy bay thả cho tro bay trong gió, gió cuốn đi và mất hút trong không trung. Xem như tôi đã hoàn tất chuyến bay. Chút lãng mạn cuối cùng đã thành tro bay về với gió. Ước vọng của một thời cũng đã chấm dứt, tôi về đây để nghe gió thổi và lá rụng trên đồi. Mỗi buổi chiều ngồi lặng lẽ để nhớ những tàn phai và cuộc tình không có lời chia tay. Có lẽ ở bên kia của thế giới, mỗi buổi chiều nàng cũng giống như tôi ngồi nhìn chiều đang đi và tiếc cho một cuộc tình.
* * *
Vệt sáng đã bắt đầu hiện lên ở chân đồi, ông bạn già của tôi ngừng kể, đôi mắt ông xa xăm nhìn về phía có ánh sáng vừa lên. Có tiếng kêu của con nai lẻ bạn, vang trong trảng cỏ. Ngày mai sẽ là ngày nắng đẹp. Tôi sẽ về Sài Gòn, về lại nơi loài người đang tranh nhau sống, đang cố sức để dìm nhau xuống. Chắc chắn sẽ có ngày tôi sẽ trở lại nơi này, ông bạn già của tôi ơi.

Sài Gòn, tháng Sáu 2002
DODUYNGOC

* Thơ Hồ Dzếnh
** Thơ Đỗ Duy Ngọc
***Thơ Bùi Giáng
**** Thơ Nguyễn Đình Thi
***** Thơ Bùi Giáng

Fb Đỗ Duy Ngọc


  Nỗi nhớ chiều mưa

Chiều nay Sài Gòn chợt đổ cơn mưa lớn, mưa trắng trời, nước tuôn ào ạt. Đến sáu giờ thì rả rích đến đêm. Những giọt mưa tí tách sau cơn cuồng nộ trước đó cũng khiến cho lòng người nhiều cảm xúc. Cơn mưa lắng xuống, lòng người lắng xuống khiến tôi nhớ và thèm một bữa cơm gia đình của ngày xưa, xưa lắm rồi, hơn nửa thế kỷ rồi, biết bao dâu bể tang thương, biết bao chia lìa tan tác rồi. Nhưng vẫn nhớ, nhớ như in, nhớ như chuyện vừa xảy ra hôm trước vậy. Nhớ bữa cơm sum họp còn Ba, còn Mạ, còn đủ mặt anh em và tôi lại chỉ nhớ và thèm có hai món ăn bình thường, dân dã mà mỗi khi mùa mưa miền Trung, Mạ hay nấu cho ăn. Cũng cơn mưa rả rích thế này, chỉ thiếu không khí se lạnh của mùa đông miền Trung. Cả nhà ngồi quanh bàn với những món ăn Mạ nấu, trong đó có món tép rang khế. Có người gọi nó là con tép, con ruốc nhưng Mạ tôi gọi nó là con khuyết. Bởi nó cong như vầng trăng khuyết. Đây là món ăn đơn giản, dễ làm, lại làm mau. Cứ đến mùa ruốc khoảng tháng 6, tháng bảy, Mạ tôi mua loại ruốc đỏ, về đãi sạch cát, sạn, phơi khô vài nắng trên cái trẹt đan bằng tre rồi gói kỹ trong túi. Con ruốc khô nấu được nhiều món, có thể nấu canh với khế, có thể xào với dưa chua nhưng tôi thích nhất vẫn là con ruốc khô xào với khế rồi tưới nước mắm ớt tỏi. Món này làm nhanh, ruốc làm sạch bụi bẩn, cũng có thể rửa bằng nước cho cát lắng xuống, vớt ra để cho ráo. Cho dầu vào chảo, phi tỏi hành sả cho thơm rồi cho ruốc vào, nêm nếm gia vị vừa ăn là được. Cũng còn có cách là vẫn giữ con ruốc thật khô, bắt chảo cho nóng, đổ ruốc vào, ruốc nóng bốc lên mùi thơm như mực nướng, hạ chảo, cho vào vài lát khế với vài cọng rau thơm rồi chế chén nước mắm ớt tỏi vào. Ăn kiểu này con ruốc dòn trong miệng bùi bùi lẫn với miếng khế chua trộn với nước mắm mằn mặn, cay cay, ngon quá là ngon. Ruốc khô là món ăn rẻ tiền nhưng lạ mà ngon miệng. Rời nhà đi năm châu bốn bể vẫn thèm dĩa ruốc khô, nhất là những buổi chiều mưa như thế này. Sau này, lớn rồi già, thích nghiên cứu về thực phẩm mới biết thêm rằng ruốc biển khô là thực phẩm rất có sẵn ở Việt Nam nhưng chưa được nhiều người quan tâm. Trong khi đó, ở các nước Châu Á khác, đây lại là món ăn được trọng dụng vì nhiều tác dụng tốt cho sức khoẻ. Theo các chuyên gia dinh dưỡng, đây chính là một món ăn tuyệt vời giúp bổ sung một số chất dinh dưỡng cần thiết và quan trọng cho cơ thể. Đối với trẻ em đang phát triển, quá trình trao đổi chất của cơ thể đang hoạt động mạnh, việc bổ sung canxi là điều không thể thiếu. Lúc này, cần cho bé nhiều ruốc khô hơn. Tại Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản..., ruốc biển khô được xem là một trong những món không thể thiếu trong bếp của mỗi gia đình vì tính hữu dụng và giá trị dinh dưỡng tuyệt vời của nó..Ruốc biển khô có vị ngọt, mềm, thơm ngon, rất giàu canxi, là chất bổ sung canxi hiếm có cho trẻ em trong thời kỳ đang lớn. Theo nghiên cứu, ruốc khô có tác dụng khai thông dạ dày, tiêu đờm viêm, hàm lượng canxi rất cao, hương vị đặc trưng, chứa chất béo động vật, mỗi 100 gram chứa 738 Mg cholesterol tốt, cao gấp khoảng 10 lần so với lợn, bò và cừu. Ruốc khô rất giàu magiê, magiê đóng một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của tim, có thể bảo vệ hệ thống tim mạch, làm giảm nồng độ cholesterol trong máu, giúp ngăn ngừa xơ cứng động mạch, tăng huyết áp và có vai trò nhất định trong việc phòng ngừa chứng nhồi máu cơ tim. Chắc ngày mai ra chợ Bà Hoa mua vài lạng ruốc khô về làm một dĩa cho đỡ nhớ. Để tìm lại cái hương vị cũ, để tìm lại bóng dáng của ngày xưa đã đi qua mất rồi.
Món thứ hai chiều nay tôi nhớ và thèm là món canh mít non. Đúng ra món này thường ăn vào mùa hè Canh mít non là món ăn quen thuộc trong bữa cơm hàng ngày của người dân miền Trung. Trong những trưa hè nóng bức, bát canh với hương thơm thoang thoảng của lá lốt, cái bùi của mít non cùng vị ngọt tự nhiên trong nước dùng đem đến cho bạn cảm giác thơm ngon lạ miệng. Nấu canh mít non thì phải có ruốc Huế. Ruốc ở đây cũng là con ruốc ta vừa làm món ruốc xào ở trên. Thế nhưng, ruốc này đã được giã mịn lúc còn tươi mua ở chợ về. Xong trộn với muối theo một lượng muối ruốc nhất định, cho vào hủ hay keo, phơi nắng cho đến khi ruốc chín đổi màu là ăn được. Lúc ruốc chín sẽ rỉ ra một chất nước tựa nước mắm, người ta gọi là nước mắm ruốc nhỉ. Nước mắm này mà xáy với mấy trái ớt xanh ăn với bánh bột lọc nữa thì ngon không chê vào đâu được. Người Trung đặc biệt là từ Đà Nẵng trở ra ngày xưa chỉ dùng ruốc này để nêm nếm chứ chẳng ai dùng bột ngọt, bột nêm. Mít non, lá lốt, tôm tươi là những nguyên liệu chính của món canh ngon miệng này. Phải lựa những trái gai mịn đều, da nhẵn thì mít vừa có thịt lại không quá nhiều xơ. Bổ ra thành nhiều phần nhỏ, gọt vỏ, bỏ cùi, ngâm vào nước lạnh để ra bớt mủ và không bị thâm vì gió. Thông thường, mít non bán ở chợ đã được thái sẵn, chỉ cần mua về nhặt rửa lại là được. Tôm thì nên mua những con tôm bé bằng ngón tay út, nếu có tôm đất là ngon nhất vì tôm chắc và ngọt thịt. Tôm mua về cắt bỏ đầu, bóc vỏ, giã hơi dập, ướp với một ít gia vị. Lá lốt nên chọn mua loại lá còn non, có màu xanh tươi, đừng chọn loại lá dày, màu xanh đậm vì khi lá lốt già khi nấu có vị đắng làm canh không ngon. Lá lốt rửa sạch, thái thành sợi nhỏ. Cho nồi lên bếp, phi thơm hành, tỏi, cho tôm đã giã vào xào sơ qua. Đổ nước vào nấu sôi, cho mít vào nấu chín, nêm lại gia vị, nêm ít ruốc Huế cho vừa ăn. Tắt bếp, cho lá lốt vào, múc ra và ta đã có một tô canh nít non ngào ngạt. Cách nêm ruốc cũng có nhiều cách khác nhau. Có người cho ruốc vào chén nước âm ấm, gạn bớt cát sạn nếu có sau đó dùng nước ruốc đó cho vào nồi canh khi chưa sôi. Theo kiểu này, tô canh không nặng nùi ruốc mà chỉ thoang thoảng. Cách khác là cho ruốc vào trực tiếp nồi canh, cách này đậm đà hơn nhưng mùi ruốc rất nặng. Ở miền Trung, đặc biệt là ở Quảng Nam, người ta thường nấu canh mít non với cá chuồn. Riêng tôi, tôi thích canh mít non Mạ tôi nấu với tôm đất tươi giã dập hơn. Còn cá chuồn để mổ bụng nhét nghệ với hột nén vào chiên dòn lên ăn ngon hơn nhiều.
Mưa vẫn còn ở ngoài hiên, những giọt mưa vẫn tí tách trên sân nhà, ký ức của tôi về lại những năm xưa qua hai món ăn dân dã. Món ăn hiện trên những con chữ và tôi khóc. Nước mắt của lão già bảy mươi chảy xuống không cầm được. Nỗi nhớ cồn cào vì món ăn thật ra xét cho cùng cũng chỉ là cái cớ. Cái cớ để nhớ về những gì đã không còn nữa, nhớ về những người đã về với cát bụi. Giọt nước mắt đã úa màu với thời gian. Ba ơi! Mạ ơi! Anh ơi! Vợ ơi! Cả nhà ơi! Nhớ lắm.

Khuya 5.8.2020
DODUYNGOC

Fb Đỗ Duy Ngọc


 

Đứng lại

Đỗ Duy Ngọc

Hắn đang đi trên đường. Phố chật. Mùi xăng, mùi người, mùi cống  rãnh, mùi rác rưởi, mùi khói xe bay lên nồng nặc. Tất cả quyện lại, hoà lẫn vào nhau thành mùi trần gian. Hắn còn ngửi thấy mùi nắng, khen khét trong không khí. Hắn buồn nôn. Có một cái gì đó cựa quậy trong bao tử, muốn trào ra. Hắn vẫn đang đi. Trên vỉa hè. Bây giờ người ta chạy xe lên luôn ở vỉa hè nên hắn vừa đi vừa né. Đi trên vỉa hè cũng chẳng khác gì đi trên lòng đường. Còn phải tránh những viên gạch vỡ. Nhiều lúc cả đống gạch vỡ. Năm nào người ta cũng lót gạch vỉa hè mới, sao chúng mau vỡ thế? Chẳng bù hồi xưa. Hắn lại nhớ ngày xưa. Hắn tiếc. Giá như cho trở lại ngày xưa, hắn sẽ sống khác bây giờ. Đương nhiên rồi. Bây giờ hắn sống kỳ cục quá. Mà cả xã hội kỳ cục chứ phải mình hắn đâu. Giờ thì không còn chọn lựa. Ừ! Cứ thế mà sống cho đến hết đời. Hắn quẹo qua một ngã tư, mấy hàng cây cụt đầu không còn bóng mát. Người ta đang muốn chặt hết cây cối trong thành phố này. Phố không có cây như người ở truồng, trông nham nhở tợn. Hắn mỉm cười với ý nghĩ này. Và hắn chợt nghĩ giá như bây giờ tất cả mọi người đều trần truồng đi giữa phố nhỉ? Chắc là vui. Ai to ai nhỏ, ai lớn ai bé, ai rậm rạp ai trơn láng đều lồ lộ ra hết. Nhưng mà cả thế gian trần trụi thì lại chẳng có gì đặc biệt, vì ai cũng trụi lủi như nhau. Thế thì chẳng vui, chẳng có chi khác biệt. Hắn đốt một điếu thuốc, rít một hơi thật sâu và rồi hắn muốn đứng lại.
Hắn muốn đứng lại, không muốn đi nữa. Đứng lại hẳn ở vị trí này. Đứng lại không phải vì mệt mỏi, không phải vì chán đi. Mà chỉ vì muốn đứng lại. Thế thôi. Hắn sẽ nhìn từng người đi ngang qua. Hắn sẽ nhìn từng chiếc xe đi ngang qua. Hắn sẽ quan sát người cảnh sát giao thông bên góc ngã tư làm chuyện mà ai cũng ghét nhưng rồi ai cũng tình nguyện làm khi phạm lỗi. Hắn sẽ phân tích thủ thuật bỏ tiền vào túi của anh công an. Anh chàng này nghĩ rằng sẽ không ai thấy, nhưng hắn thấy và thấy rất rõ. Ở cuộc đời này chẳng ai dấu diếm được điều gì, không người này biết thì cũng có kẻ khác thấy he..he. Hắn sẽ đứng đó nhìn qua bên đường để nhìn cô gái khá đẹp mặc cái váy ôm bó sát người để lộ cái mông to. Cái mông gợi tình, cái mông khiêu khích đàn ông và cái mông khiến hắn suy nghĩ về cái nằm sau lớp vải căng cứng đó. Nghĩ đến đó, hắn quay mặt đi, cảm thấy ngượng với ý nghĩ dâm dục của mình. Nếu tưởng tượng thêm chút nửa, phần dưới của hắn sẽ căng cứng. Không được thế. Hắn nhìn vào ông già sửa khoá bên vệ đường. Ông ta đang dũa chiếc khoá kẹp trong cái ê tô. Ông làm với một vẻ say sưa. Dũa vài đường, ông lại thổi bụi, mở lấy cái chìa khoá, ngắm ngắm, soi soi. Đời hắn chẳng bao giờ say sưa làm việc như ông già ấy. Cả đời hắn làm việc gì cũng hời hợt, chẳng chú tâm. Hắn sống chẳng đam mê, chẳng khát vọng, chẳng ước ao, chẳng mục đích. Sống là sống cho qua ngày, thế thôi. Hắn hờ hững với chung quanh, có thể cho hắn là kẻ ích kỷ, cũng đúng. Vì hắn chẳng quan tâm đến ai và cũng chẳng mong ai quan tâm đến hắn.
Hắn vẫn đứng bên đường. Hắn vẫn chưa muốn đi. Hắn đứng lại không phải vì chân mỏi, cũng chẳng phải chán đi. Chẳng qua hắn muốn đứng lại. Hắn đã nhìn và bây giờ hắn cũng chán nhìn. Đầu hắn giờ trống rỗng, chẳng còn một ý nghĩ. Những thứ cứ như trôi tuột đi.
Đúng lúc ấy thì hắn nghe tiếng xe rú. Tiếng bánh xe siết thắng kéo trên mặt đường một thứ âm thanh ken két. Có tiếng thét, tiếng la ở phía sau. Rồi hắn thấy có bóng một chiếc xe lướt nhanh qua trước mặt hắn. Đằng sau một đám người rú xe đuổi theo. Rồi bỗng dưng có một vật gì ném về phía hắn. Hắn chụp lấy theo bản năng và ôm vào lòng theo quán tính. Chưa kịp xem đó là vật gì thì hắn thấy cổ áo hắn bị tóm lấy, siết mạnh. Có một cái chân ai đó gạt mạnh vào chân hắn, hắn té chúi nhủi. Vật hắn đang ôm văng ra. Cái kiếng cận thị cũng văng ra. Hắn bỗng thấy cảnh vật lờ mờ. Có ai đó quặt hai tay hắn vào sau lưng. Đau điếng. Mặt hắn gục xuống hè phố, hắn thấy có cát trong miệng. Lại có cánh tay ai đè đầu hắn xuống. Hăn muốn hét mà cổ họng đông cứng. Hắn muốn ngẩng đầu lên để xem chuyện gì đang xảy ra mà không ngóc đầu lên được. Có tiếng người xôn xao: Thằng này là đồng bọn của bọn cướp mà không kịp thoát. Lại có người cao giọng hét lên từ bên kia đường: Đồ ăn cướp, đánh chết nó đi. Hắn vùng vẫy, càng vùng vẫy hắn có cảm giác tê buốt cánh tay, đầu như muốn vỡ tung và thân người như ai bóp vặn. Hắn hiểu mang máng là người ta cho hắn là thằng ăn cướp vì hắn đang cầm tang vật vụ cướp trong tay. Hết đường chối cãi.
Hắn đang ở trong đồn công an, tay bị trói quặt ra sau bằng chiếc áo sơ mi của hắn. Chiếc áo vừa thay hồi sáng để đi dự lễ khai giảng. Hắn ở trần, những chiếc xương nhô ra, xương ở hai hốc vai giương lên nhìn thảm hại. Trên người hắn có mấy vết bầm.
Một người mặc sắc phục công an bảo hắn:
- Có giấy tờ tùy thân không?
- Trong túi quần
- Lấy ra xem
- Tay tôi bị trói thế này thì làm sao tự lấy được. Các anh cứ lầy mà xem
Anh chàng công an cười hô hố:
- À quên, tay mày bị trói thì làm sao lấy ha..ha
Chiếc ví được lấy ra, y rút ra những giấy tờ của hắn. Đầu tiên là cái chứng minh cong queo, hắn chợt nhớ cái giấy này đã hết hạn cả năm rồi, hắn định làm mà lần lữa mãi. Anh chàng công an nhìn vào tấm ảnh trong giấy, rồi ngước nhìn hắn, gật gật.
Anh ta rút tiếp một thẻ nữa, và đọc rồi hất hàm:
- Giảng viên đại học lại đi ăn cướp, hay đấy. Phải báo cho bọn nhà báo mới được.
- Tôi chẳng ăn cướp. Tôi chỉ là kẻ đứng bên đường
Anh ta trợn mắt:
- Không ăn cướp mà đứng đó cả gần tiếng đồng hồ để chờ đồng bọn.
- Tôi chẳng có đồng bọn nào cả, chẳng qua là tình cờ thôi
- Người dân ở đấy nói với chúng tôi là anh đứng đó lâu lắm, mắt thì láo liên chẳng khác chi kẻ cắp. Anh chối sao được. Camera ở đó cũng có hình ảnh của anh.
Hắn có suy nghĩ là tay này khi biết hắn là giảng viên đại học thì có vẻ bớt căng thẳng và tôn trọng hắn chút chút vì đã xưng hắn bằng anh thay vì mày như lúc đầu. Giọng hắn mạnh và cương quyết hơn:
- Các anh nghĩ sai rồi. Tôi là giáo viên, tôi vừa đi dự lễ khai giảng từ trường về. Tôi làm sao là kẻ cướp được. Các anh phải biết suy nghĩ chứ. Tôi sẽ kiện các anh đấy.
- Ha...ha kiện à? Xin lỗi anh nhé. Giáo viên là cái đéo gì mà không thể là kẻ cướp. Thầy gíao thời nay là nghề có thu nhập thấp nhất và ở tầng lớp gần cuối của xã hội đấy hê...hê. Bây giờ xã hội này ai cũng có thể là quân ăn cướp cả. Kể cả giáo viên.
Hăn vươn tới, gào lên:
- Anh nói đúng, ngay những người quyền cao chức trọng cao quý hơn cái nghề giáo viên của tôi cũng là kẻ cướp đấy. Cuộc đời này bây giờ toàn kẻ cướp, nhưng phải chừa tôi ra, biết không? Phải chừa tôi ra.
Hắn gục đầu, cảm thấy nhục và tức tối. Tự nhiên bị cái chuyện thị phi oan ức mà không cãi được. Hắn thèm một điếu thuốc. Hắn tiếc cái mắt kiếng bị bể một tròng. Hắn giận mình sao lại đứng đó làm chi.
Tay công an bỏ đi bàn bạc với ai đó. Hắn nghiêng đầu trên mặt bàn. Có giọt nước mắt chảy xuống. Hắn uất. Tình ngay lý gian. Hắn lơ mơ chẳng biết bao lâu thì anh chàng công an trở lại. Y đi vòng sau ghế, cởi trói cho hắn.
- Thôi thì xem như bỏ qua cho anh. Chúng tôi xét thấy hình như anh chẳng liên quan với đám cướp
- Các anh bắt lầm người thì phải xin lỗi tôi chứ đâu phải muốn bắt thì bắt, muốn tha thì tha. Luật pháp ở đâu mà kỳ lạ thế.
Tay công an đâp mạnh tay lèn bàn, dí sát đầu gần mặt hắn, cười khẩy:
- Thế bây giờ anh muốn gì? Muốn về hay muốn ở nhà giam. Đây chẳng hề biết xin lỗi ai. Luật là ở trong tay chúng tôi, nhớ lấy điều đó.
Rồi y ném cho hắn chiếc áo. Chiếc áo nhăn nhúm. Hắn mặc vào và đi ra cửa sau khi nhận lại chiếc ví.
Ra đến cửa, tay công an níu tay hắn lại hỏi:
- Nè anh, tui cứ thắc mắc là anh không dính dáng chi bọn cướp, thế sao anh lại đứng cả giờ đồng hồ ở đấy nhìn qua nhìn lại làm gì? Sao anh không đi? Anh có bị tưng không vậy?
- ANH KHÔNG HIỂU ĐƯỢC ĐÂU? CHỈ VÌ TÔI MUỐN ĐỨNG LẠI.

Tháng 3.2017
DODUYNGOC

https://www.facebook.com/doduyngoc



Chuyện của anh Tiến sĩ chưa vợ

Đỗ Duy Ngọc

Năm nay hắn 42 tuổi, có bằng Tiến sĩ, nhìn cũng không đến nỗi nào, nhưng chưa lần nào có vợ. Đó là nỗi khổ tâm của hắn, cũng là nỗi buồn của bố mẹ hắn. Bố mẹ hắn là giáo sư trước 1975, bố dạy Vật lí, mẹ dạy Pháp văn, trường nổi tiếng nhất miền Nam Việt Nam thời ấy: Trường Pétrus Ký. Bố hắn dân Bắc Kỳ Hà Nội di cư bằng tàu há mồm 1954, con nhà vốn nề nếp gia phong ở xứ Tràng An. Mẹ hắn dân Sài Gòn thứ thiệt đã mấy đời, cũng thuộc giòng trâm anh thế phiệt, học trường Tây Marie Curie, đậu đủ Bac. un, Bac. deux của nền giáo dục thực dân Pháp, cộng thêm cái bằng tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn ban Pháp văn.
Ngôi nhà hắn và bố mẹ hắn đang ở là một ngôi biệt thự xưa rộng ngàn thước vuông trên đường Bạch Đằng Bình Thạnh. Đây là căn villa do ông bà ngoại hắn để lại. Nói chung, hắn như là cậu công tử quý tộc, hội đủ tinh hoa của cả hai miền Nam Bắc. Nhưng hắn không được hưởng phú quý, vì hắn sinh vào tháng 11.1975, lúc bộ đội miền Bắc đã vào miền Nam, thống nhất đất nước. Hắn ra đời trong hoàn cảnh cả nước khó khăn, đói nghèo nên gia đình hắn cũng bị chút ảnh hưởng. Mẹ hắn bán dần đồ đạc để qua cơn ngặt nghèo, bắt đầu từ chiếc xe hơi VOLKSWAGEN của bố với giá đồng nát, rồi đến cái đàn piano của mẹ, rồi máy móc, đến một phần tủ sách quý của bố hắn cũng phải ra đi. Cũng may nhà hắn có cái để bán. Miền Nam đã thực hiện được một nửa lời dạy của lãnh tụ: Không có gì quý...khi bán đến mấy món nữ trang thì mẹ hắn khóc vì đó là những món của ông bà ngoại để lại, cũng như khi bán một phần tủ sách trốn thoát được qua vụ đốt sách trong chiến dịch bài trừ văn hoá đồi truỵ, phản động, bố hắn cũng rơm rớm nước mắt, bỏ ăn mấy bữa. Nhưng thật ra nhà hắn còn sung sướng hơn lắm người chung quanh, những người bên thua cuộc không còn gì để bán. Hắn vẫn còn sữa để uống, còn có chút thịt, cá trong những bữa cơm, dù ít ỏi.
Đúng ra là cả nhà hắn đã di tản từ những ngày cuối tháng 4.1975, nhưng lúc đó mẹ hắn đang mang thai hắn mới hai tháng, sợ hư thai đứa con cầu tự, bố mẹ hắn ở lại. Gia tộc hắn cũng ngộ. Ông nội hắn là con độc đinh, bố hắn cũng chẳng có anh chị em, ông bà ngoại cũng chỉ có mình mẹ hắn, đến đời hắn cũng vậy, chỉ sinh được mình hắn rồi hình như mẹ hắn hết trứng hay bố hắn khô mất tinh trùng, chẳng đẻ thêm đứa nào. Hắn được cưng chiều và bảo bọc tối đa. Từ lúc bắt đầu cắp sách đến trường, bố mẹ hắn nhồi nhét đủ thứ kiến thức vào cái đầu non nớt của hắn. Lúc nào cũng học và học. Hắn không có tuổi thơ, không biết những trò chơi của trẻ nhỏ. Hắn chỉ biết những con chữ và những bài toán, những công thức khô khan. Sách truyện được bố mẹ hắn chọn lựa kỹ càng và chỉ đọc những thứ đã được lựa chọn. Nhiều lần trong lớp học, hắn ngơ ngác khi nghe bạn bè hắn nói chuyện, trao đổi với nhau, hắn thấy hắn ở thế giới khác và bằng lòng với thế giới không giống mọi người đó. Và đương nhiên, hắn học rất giỏi, bất cứ học lớp nào, cấp học nào hay trường nào, hắn vẫn là đứa học trò xuất sắc nhất trường, nhưng đồng thời cũng là đứa học trò ngơ ngác nhất trường, hắn chẳng biết gì ở cuộc đời, hắn chỉ biết những điều có trong sách vở. Bố hắn chở hắn đi học tứ khi hắn vào nhà trẻ cho đến khi hắn lấy xong bằng thạc sĩ. Đều đều mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, lúc nào hai bố con cũng đi với nhau. Vì thế hắn không có bạn, hắn không bao giờ tham gia cắm trại, đi pic nic, sinh hoạt với bạn bè, bố mẹ hắn cấm triệt, sợ hắn bị lây những tật xấu, thói hư của đám trẻ.
Hắn lớn lên trong lối giáo dục ấy, hắn không có ý thức phản kháng, tinh thần tự lập, hắn được dạy phải vâng lời và như thế hắn cũng chẳng có một chút kiến thức nào về chuyện trai gái, bồ bịch hay chuyện tình dục. Ngay khi hắn lún phún lông tơ và lúc hắn phóng tinh trong giấc ngủ lần đầu tiên của tuổi dậy thì, hắn cũng báo cáo với bố mẹ và hai người bảo hắn đó là điều dơ bẩn, dâm ô, không nên tìm hiểu và lưu tâm đến. Hắn nghe lời và không quan tâm nữa.
Hắn đậu tốt nghiệp phổ thông năm mười tám tuổi, đương nhiên là hạng giỏi, thi đậu vào trường Bách khoa cũng ở thứ hạng cao. Trong những năm đi học, bố mẹ hắn cứ khuyên răn mãi điệp khúc là không được quen cô gái nào, phải chú tâm vào chuyện học hành, vì chuyện vợ con lúc nào cũng được, còn chuyện học hành là phải làm ngay, không được trễ nải. Và đương nhiên, hắn cũng vâng lời. Lấy xong cử nhân, hắn tròn 22 tuổi. Ra trường với bằng đỏ thủ khoa, hắn được học bổng làm nghiên cứu sinh ở Úc. Bố mẹ hắn bàn cãi mãi, đắn đo mãi, cuối cùng quyết định để hắn học Thạc sĩ ở Việt Nam, nhường suất đó cho người khác vì sợ hắn đi học xa, không ai kèm cặp, quan tâm, sợ hắn hư hỏng rồi mất tiêu đứa con ngọc con ngà. Thế là hắn ở lại, học xong thạc sĩ. Năm đó hắn đã 24 tuổi, kiến thức chuyên môn tràn trong óc hắn, nhưng với cuộc đời, hắn vẫn là một đứa bé mới lớn, chả biết quái gì. Suốt ngày chúi mũi vào sách vở, rảnh rỗi thì ra sân chơi với mấy con chó kiểng nhà nuôi. Và cũng chẳng biết gì về đàn bà, con gái. Bạn học của hắn gọi hắn là "Cha cố". Thật ra hắn còn kém hiểu thế giới phụ nữ còn thua các linh mục là cái chắc.
Hắn nộp đơn xin đi làm, với thành tích học tập của hắn, chuyện xin việc làm dễ ợt, ba bốn chỗ nhận hắn, hắn quyết định vào làm việc với tư cách kỹ sư tại Viện Khoa học Kỹ thuật thành phố. Đến lúc này, bố mẹ hắn mới đề cập chuyện vợ con của hắn. Đi làm về, sau bữa cơm, mẹ hắn hay mon men hỏi xem trong cơ quan hắn có bao nhiêu nữ, có cô nào đẹp không, có để ý cô nào không, hôm nào mời về nhà chơi...Lúc đầu hắn cũng lúng túng, rồi lưu tâm và phát hiện trong phòng của hắn có một cô bé có khuôn mặt xinh xinh, hay nhìn hắn cười cười. Cô gái nhìn cũng được mắt, chỉ tội hơi béo tí và hay cười nói hơi vô duyên. Nhưng hắn nhìn thấy chút da thịt hơi thừa ấy tươi tắn lắm và cái vô duyên ấy lại biến thành người vui tính. Và đến lúc đấy, cái giống đực ngủ quên lâu này trong người hắn mới bắt đầu mon men trỗi dậy. Hắn hay liếc trộm cặp vú đầy đà và cái mông lắc lư của cô gái. Hắn thấy thèm khát. Và chính sự trỗi dậy của giống đó khiến hắn liều lĩnh, hắn lấy hết can đảm rủ cô gái đi xuống căn tin uống nước. Cô gái nhận lời ngay bằng đôi mắt rất ướt nhìn hắn. Hắn vui và về kể với mẹ. Mẹ hắn bảo hôm nào dẫn về nhà ăn cơm một bữa để bố mẹ xem mặt. Sau ba lần đi uống nước, một lần nắm tay mà chẳng nói gì, hắn mời cô gái chủ nhật đến nhà hắn ăn cơm trưa. Cô gái mừng ra mặt, tíu tít nói cười, còn hắn thì hân hoan.
Hôm đó mẹ hắn đi chợ sớm, bố hắn tỉa lại mấy chậu hoa ngoài sân, ba con chó được nhốt vào chuồng kỹ lưỡng. Bữa ăn có gà luộc với lá chanh đúng điệu Bắc kỳ, có canh chua cá hú, có cá thu chiên xốt cà lại thêm tô cá kho tộ, một bữa cơm dung hoà Nam Bắc. Trong lúc mẹ hắn lúi húi dọn cơm, cô gái và hắn ngồi xem chương trình đi tìm gì đó trên truyền hình, chốc chốc lại cười sảng khoái. Đến lúc ăn cơm, ngồi vào bàn, cầm đũa chẳng mời ai, cô gái lật qua lật lai dĩa gà luộc, gắp ngay cái đùi và cười tít mắt: Con chỉ khoái ăn đùi gà hì..hì. Bố hắn cau mặt, bỏ đũa xuống rồi lại cầm lên, mẹ hắn hết nhìn bố hắn lại nhìn cô gái đang nhồm nhoàm cái đùi gà. Không khí yên lặng, chỉ nghe tiếng đũa và tiếng muỗng chạm vào tô. Khi cô gái ra về, bố hắn lắc đầu bảo gọn lỏn: không được. Mẹ hắn cũng dứt khoát: không chấp nhận được. Thế là cuộc tình tan, dù chỉ mới nắm tay và ba lần ngồi chung quán. Hắn buồn không phải vì thất tình, vì đã có gì sâu đậm đâu, nhưng hắn tiếc cặp vú căng và cái mông nẩy. Hắn bắt đầu thèm đàn bà. Cô gái thì vẫn đeo riết hắn, hắn tìm cách trốn mãi mà cũng không xong. Cũng may, lúc đó có một suất học Tiến sĩ, hắn nộp đơn và rời cơ quan, từ giã luôn cô gái có nụ cười vô duyên và cái mông nở.
Hắn lấy xong bằng Tiến sĩ lúc 28 tuổi, lo học hành nghiên cứu hắn quên luôn nỗi thèm khát đàn bà, bản chất của hắn và gia đình là học hành trên hết mà. Thêm cái bằng, mắt hắn tăng thêm cận hai độ nữa. Nhà hắn ai cũng đeo kính cận, bố hắn bốn độ, mẹ hắn ba độ, riêng hắn sáu độ, lòng  kính dày như đít chai. Hắn được nhận vào một Viện nghiên cứu trực thuộc trung ương, lại nhận dạy thêm ở trường, thu nhập cũng khá. Hắn lại nghĩ đến chuyện kiếm vợ. Mẹ hắn lại hối, lại thúc, lại hỏi han, thăm dò.
Hắn bắt đầu để ý cô gái ấy từ khi cô ấy vào thực tập ở Viện. Người cao dong dỏng, nước da trắng, mặt hiền như mặt tượng Đức Mẹ. Hắn lại được phân công hướng dẫn cô ấy. Càng ngày hắn càng mê mệt. Cô ấy là một người rất chỉn chu trong chọn lựa trang phục, lại rất sạch sẽ từ thân thể cho đến ngôn tứ. Hắn lại biết thêm cô là con gái một của một giáo sư đầu ngành. Hắn mê tít thò lò, nghĩ mọi cách để chinh phục cho được. Rủi thay hắn chẳng có chút kiến thức và kinh nghiệm về chuyện ấy, nên cứ thập thò mãi. Cô gái thì sau một thời gian gần gũi cũng có chút cảm tình với hắn, một tiến sĩ trẻ nhiều năng lực, thừa cơ hội tiến thân. Nhan sắc cũng không đến nỗi nào, chỉ tội cái kính cận nặng quá và cử chỉ cứ ấp a ấp úng chẳng có chút dũng khí của các chàng trai si tình. Thế rồi cũng có được một cuộc hẹn chiếu chủ nhật. Hắn nôn nao suốt cả ngày, biết cô ấy rất thích sạch sẽ, hắn đã gội đầu nghiêm chỉnh, chơi luôn xà phòng Camay mua ở Chợ Cũ, diện bộ cánh đẹp nhất từ sớm, ngồi ngoài sân chờ đến gần giờ hẹn lên đường. Ngồi chờ lâu nóng ruột, bụng lại đói, thấy trước nhà bên lề đường có gánh bún riêu, hắn kêu một tô lớn, bún riêu mà thiếu mắm tôm thì hỏng bét, hắn chơi một muỗng lại thêm một nhúm ớt bằm. Ngon lạ lùng. Và hắn đến nơi đúng hẹn, vừa lúc cô ấy cũng có mặt. Chuyện qua lại rất trơn tru dù chỉ loanh quanh chuyện ở cơ quan, mà thật ra không nói chuyện cơ quan, hắn cũng chẳng biết chuyện gì để nói, ánh nhìn cả hai cũng tha thiết lắm rồi, bàn lại ngồi khuất sau tàn cây. Hắn thấy mình mạnh dạn hẳn lên, kéo ghế gần hơn chút và can đảm hôn lên đôi môi rất mọng và rất đẹp của nàng. Nàng cũng ngửa cổ ra đón nhận, nào ngờ, khi môi vừa chạm môi, cô ấy đã đẩy hắn ra, uống liền ngụm nước và từ lúc ấy im lặng cho đến lúc chia tay với nét mặt rất lạnh lùng. Hắn hoảng, chẳng biết vì sao cô ấy lại đổi ngay thái độ thế. Vốn là nhà khoa học, về đến nhà, hắn ghi hết diễn tiến buổi gặp gỡ ra giấy, ngồi phân tích từng công đoạn. Cuối cùng, hắn ôm đầu phát hiện ra thủ phạm giết chết tình yêu của hắn chính là mùi mắm tôm chưa được tẩy sạch và miếng ớt đỏ lòm dính vào kẽ răng của hắn. Hắn chỉ biết kêu trời. Cô trước vì cái đùi gà, cô này vì bát bún riêu. Sao vậy trời. Toàn miếng ăn làm hại hắn.
Hắn tiếp tục sống cô đơn, sức trai căng đầy nhựa, đêm nằm hắn thèm khát đàn bà, nhưng chẳng có đàn bà để hắn có thể trút nhựa sống đầy ứ trong cơ thể hắn. Hắn không ngao du với ai, bạn bè càng hiếm. Đi làm về lầm lũi đọc sách, rảnh nữa thì đùa với mấy con chó. Bố mẹ hắn đã vào tuổi già, cũng loay hoay với bệnh tật, nhưng cũng không quên nhắc khéo hắn đi tìm vợ. Nói mãi mà cứ thấy hắn im ỉm, mẹ hắn bảo hắn không tìm được thì mẹ hắn sẽ tìm cho hắn. Hắn nghĩ, cứ để mẹ lo, thế mà lại hay, chẳng sợ bị chê trách. Lúc này hắn chỉ cần có người đàn bà, để hắn khám phá, để hắn biết mùi hoan lạc của dục tình, chỉ cần thế là đủ.
Mẹ hắn sáng nào cũng ra công viên gần nhà đi bộ cho lưu thông máu huyết. Tụ tập nhau thành một nhóm đủ cả trẻ lẫn già. Đi riết thành quen, quen lâu thành thân. Mẹ hắn để ý được một cô trong nhóm, tuổi độ hăm mấy ba mươi, có khuôn mặt đẹp, người cao ráo nở nang. Tánh tình lại hoà đồng, tươi vui, thường giúp đỡ mọi người. Mẹ hắn ưa lắm rồi nên cứ sau buổi tập lại lân la nói chuyện, tìm hiểu. Rồi cũng lại một bữa chủ nhật đẹp trời, mời  cô ấy về nhà cùng làm cơm ăn trưa. Khi mẹ hắn giới thiệu với hắn, cô ấy bảo biết anh rồi, gặp hoài đầu ngõ, lại nghe hàng xóm khen anh nhiều. Hắn thì mới gặp đã thấy run rẩy trong lòng, nụ cười cô ấy tươi quá, dáng người cô ấy đẹp quá, chẳng khác chi người mẫu, cặp vú căng sau làn áo chật, cặp mông nẩy như đít vịt, hắn nhìn mà lòng nao nao. Đôi mắt hắn lén nhìn cô gái mãi sau làn kính cận. Tự nhiên như người nhà, sau màn chào hỏi, giới thiệu, cô gái vào ngay bếp, lặt rau, rửa thịt, lăng xăng nhiệt tình như người thân đã lâu, mẹ hắn cười ưng ý. Bố hắn ngồi uống trà hút tẩu từ phòng khách nhìn ra theo dõi cô gái cũng tủm tỉm cười đồng thuận. Bữa ăn diễn ra trong không khí vui tươi và hân hoan của toàn thể mọi người. Bố hắn khen canh cua rau đay cô gái nấu khéo quá, cua tụ thành một tảng, không nát, nước ngọt dịu không tanh. Mẹ hắn khen dĩa cá rô chiên, bảo cô ấy hay quá, cá vàng ươm mà không cháy, ăn vào mồm cứ dòn rụm, chén nước mắm cũng quá khéo, thật vừa miệng. Hắn thì thấy món nào cũng ngon và đôi mắt lúng liếng của cô ấy làm hắn không uống rượu mà thấy chao đảo. Bố  hắn nhìn mẹ hắn, mẹ hắn nhìn bố hắn gật gật, miệng cười như hoa. Cô gái đã vào vòng chung kết. Nhưng vòng chung kết không có kết quả cuối cùng, đúng là trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Xong bữa ăn, cô gái lại đi rửa chén. Nhà hắn không rửa chén ở bồn mà lại rửa ở sàn sân sau, sát cạnh bếp. Cô gái ngồi, cái lưng dài thon với chiếc áo thun bó sát. Cái lưng quần jean trễ xuống, cái áo thun bị kéo lên để trống một khoảng lưng. Trên khoảng da thịt ấy, có xăm một con bò cạp với hai màu xanh đỏ đang giương hai cái càng to đầy đe doạ, đuôi con bò cạp kéo xuống tận xương cụt. Bố hắn thấy đầu tiên, rồi tới mẹ hắn sững sờ. Hắn cũng thấy con bò cạp rõ ràng trên khoảng da thịt lồ lộ ra đấy. Con bọ cạp hung hăng. Mẹ hắn nhìn bố, bố hắn nhìn mẹ hắn, hai cái đầu cùng lắc một lượt với  ánh mắt thiểu não. Nhìn thấy thế, hắn tuyệt vọng. Hình xăm con bọ cạp đã chấm dứt những rung động khát khao vừa rực lên trong cơ thể hắn. Cuộc tuyển lựa đã không thành. Cho mãi đến bây giờ, cô gái xinh xắn muốn làm dâu nhà hắn vẫn không hiểu vì sao chỉ có mấy phút vừa trôi qua, thái độ của cả nhà đã quay 180 độ. Hắn lại có thêm một lần thất vọng và nuối tiếc.
Hắn lại cô đơn, mẹ hắn càng lúc càng buồn, bố hắn đêm đêm vẫn thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên, vẫn lâm thâm khấn vái cầu xin ơn  trên đừng bắt dòng họ này phải tuyệt tự, chẳng còn ai nối dõi.
Hắn vẫn ngày hai buổi đi làm, đi dạy, làm lũi đi và lầm lũi về, buồn chán trong nỗi khát khao. Một bữa, cơ quan hắn khám sức khoẻ định kỳ hàng năm. Một đòan bác sĩ bên bệnh viện đến cơ quan hắn khám và xét nghiệm tập  thể. Có một cô bác sĩ khá xinh lấy máu cho hắn, cô này từ khi nhìn thấy hắn thì miệng cứ tủm tỉm cười mãi. Khi quấn dây vào bắp tay hắn để tìm ven, cô ấy bảo anh không nhớ em à? Hắn ngẩn ngơ, lục trí nhớ xem gặp cô gái xinh tươi này ở đâu mà không nhớ nổi. Hắn ngượng ngịu lắc đầu. Cô gái cười khanh khách và bảo: Ối trời ơi! Bạn hồi lớp mẫu giáo Sơn ca nhớ không, hồi đó cô giáo bắt anh song ca với em hôm tựu trường mà anh dứt  khoát không chịu khiến em khóc suốt cả buổi lễ, nhớ không? À thì ra thế! Mấy chục năm rồi, nhớ chi nổi. Nhưng cô gái này có duyên  quá, cười có cái răng khểnh sao mà xinh thế? Thế là kể chuyện cô giáo ngày xưa, nhắc mấy người bạn cũ. Rồi rủ xuống căn tin ăn trưa, rồi xin số điện thoại, rồi hẹn gặp lại. Hắn lại thấy vui, hắn lại nghĩ đến một mối tình đang đến thật nhẹ nhàng. Hai người hẹn nhau xem phim vào chiều chủ nhật. Hôm đó hắn nôn nao, vẽ ra trong đầu những giây phút thật lãng  mạn trong rạp chiếu phim. Hắn sẽ cố gắng cầm tay nàng, hắn sẽ tỏ tình, và hắn sẽ hôn nàng, một cái hôn thật tuyệt vời. Một cái hôn thơm tho, chắc chắn sẽ không mùi mắm tôm làm cho tan vỡ. Hắn chuẩn bị sớm, tắm rửa sạch sẽ, mặc bộ đồ đẹp, bỏ giấc ngủ trưa, ra ngồi trước sân và chờ giờ lên đường đến chỗ hẹn. Hắn ngồi ở ghế đá trong sân dưới bóng cây mát rượi. Ba con chó chạy giỡn chung quanh hắn, chúng thải ra mấy bãi phân giữa sân. Gió mát, hắn bắt đầu lim dim và giấc ngủ đến hồi nào chẳng hay.  Hắn chợt choàng tỉnh, nhìn đồng hồ đã thấy sát giờ, hắn lật đật chạy quanh sân tìm cái mũ bảo hiểm, rồ xe như ma đuồi đến nơi hẹn, cũng may chẳng trễ phút nào. Rạp thưa thớt người, phim chiếu nhưng hắn không quan tâm, hắn chờ giây phút thuận tiện để thực hiện những ý định. Cô gái bỗng phát hiện điều gì, cứ loay hoay nhìn xuống chân. Hắn lại lấy chân rà rà chân nàng, chân hắn chỉ quanh quẩn cái ống quần của nàng, nhưng hắn thấy vui. Cô ấy bảo hình như có mùi gì là lạ, hôi hôi. Hắn cũng ngửi thấy thế. Cả xuất phim hai người loanh quanh mãi cái mùi hôi đó, hắn chẳng thực hiện được gì. Hết phim, đèn bật sáng, cô gái lại cúi nhìn xuống và phát hiện trên ống quần của mình một vệt phân chó bốc mùi. Cũng đồng thời lúc ấy, hắn cũng phát giác đôi giày của mình dính đầy cứt chó. Cái mùi kinh khủng bắt nguồn từ  đây, cái ống quần đầy cứt của cô ấy cũng từ đây mà có. Như thế là hắn đã đạp phải bãi cứt chó của nhà  hắn rồi. Cô gái bỏ đi một nước. Hắn lại về một mình. Và cô gái đã không tìm hắn nữa. Cuộc tình chưa ngỏ đã bị bãi cứt chó làm cho tan nát, khốn nạn thật. Tủi phận  thật! Cô ấy một đi không trở lại.
Mới đây, hắn lại có một cuộc hạnh ngộ ly kỳ. Buổi chiều đi làm về, trời bất chợt đổ mưa, loạng quạng thế nào mà xe hắn và xe của một cô gái đụng nhau ngay giữa ngã tư nước đang lênh láng tụ về. Hắn dựng xe cho nàng, hỏi han ân cần, cũng may chẳng ai thương tích gì. Hắn mời cô gái vào quán trốn mưa vì xe bị vào nước đầy bô, đề hoài không nổ. Nhìn cô ấy cũng xinh, nước mưa ướt hết dán vào để lộ cơ thể tròn lẳn, ngực như muốn bứt hàng nút chạy ra ngoài. Là nhân viên ngân hàng, đã ngoài ba mươi, chưa chồng, gái Huế. Hắn nghĩ thế là đạt yêu cầu. Và cũng như các cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên tiền định trong các tiểu thuyết ngôn tình, trong các cuốn phim rẻ tiền, Trai chưa vợ gái chưa chồng gặp nhau như định mệnh an bài, đưa đến tình yêu. Chàng và nàng hẹn hò nhau nhiều lần, lúc cà phê, khi nhà hàng, quán ăn, rạp hát. Lần nào hẹn hắn cũng kiểm tra kỹ cái mồm, kiểm tra cái đế giày, đến đúng giờ nghiêm chỉnh. Hắn luôn giữ tác phong thanh lịch, đứng đắn trong các buổi gặp gỡ, đôi khi chỉ là cái nắm tay nhẹ nhàng dù lòng hắn rạo rực như than đỏ. Hắn chưa dám kể với bố mẹ, sợ lại có chuyện xảy ra nghiêm trọng nguy hại đến mối tình đang hồi rực rỡ. Hắn thấy nàng hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ, một dạ hai dạ, nghe sướng lắm. Nàng lại là con của một ông giáo cũng khá có danh ở miền Trung trước 75. Hắn nghĩ mọi dự kiến tiến triển thuận lợi, chỉ đợi đúng giờ G, hắn sẽ mang nàng về giới thiệu gia đình, tính chuyện cưới xin luôn, hắn như trái bom chờ nổ rồi, chắc khó đợi nổi. Bố mẹ hắn cũng mỏi mòn rồi, chắc sẽ cũng chẳng còn khắt khe lựa chọn. Một lần cuối tuần, hai người chở nhau đi về Long An chơi, trưa nắng gắt, mệt nhoài. Nàng chủ động gợi ý vào khách sạn nghỉ, hắn lưỡng lự một chút rồi ok bởi trong đời chưa một lần cùng phụ nữ vào nơi ấy. Vào đến nơi, nàng tắm, không khép cửa, hắn thấy cái quần lót màu đỏ thêu ren của nàng là hắn bắt đầu ngại. Trong trí tưởng tượng của hắn, chỉ có gái hư, gái làng chơi mới mang quần lót đỏ thêu ren. Sự rạo rực, háo hức bỗng giảm đi mất nửa. Hắn hơi ái ngại. Nàng tắm xong thì đến hắn tắm, đến khi ra thấy nàng tênh hênh giữa giường khát khao lại bùng cháy trở lại trong người hắn. Hai người quẫn chặt lấy nhau. Lần đầu tiên nó thấy toàn vẹn cơ thể đàn bà. Lần đầu tiên hắn sờ nắn những bộ phận kín đáo của người phụ nữ. Nàng cũng mãnh liệt không kém, hôn hít và sờ sẫm khắp cơ thể của hắn. Hắn như một lò lửa, như quả bom chờ nổ. Bỗng nàng ghé môi vào phần dưới của hắn, hắn hoảng. Từ bé đến lớn hắn không nghĩ ra kiểu này, hắn chưa hình dung cảnh này mà hắn cũng ghê ghê cái kiểu này. Hắn như bị tạt một xô nước đá. Hắn túm chặt lấy bộ phận đang đông cứng của hắn, hớt hãi chạy vào phòng tắm trước ánh mắt ngạc nhiên hết cỡ của cô gái. Hắn ngồi trong phòng tắm, trần truồng và kinh ngạc. Hắn thấy nàng sành sõi quá, hắn thấy nàng rành mạch và có vẻ quen thuộc mấy chuyện này quá, hắn sợ. Lại thẻm cái quần lót đỏ. Thôi rồi. Nàng đập cửa, hắn vẫn im. Cơn sợ hãi chưa qua hết. Thế là xong. Nàng bỏ đi. Hắn ngồi khóc rưng rức và thấy mình bất hạnh. Lúc này hắn mới cảm thấy chính cái hàng rào bố mẹ hắn quây chung quanh hắn từ lúc mới chào đời cho đến bây giờ đã khiến cuộc đời hắn áo não như hôm nay. Đã khiến hắn lạc lõng giữa cuộc đời, ngây ngô giữa cuộc sống. Hắn sống giữa trần gian như một kẻ xa lạ.
Hắn bảo với bố mẹ hắn là  hắn muốn đi tu. Mẹ hắn khóc ngất. Bố hắn thắp nhang lạy mãi ở bàn thờ, miệng khấn vái lia lịa. Dòng họ nhà này thế là tuyệt tự rồi sao?
Tui là bạn bố hắn, tui thấy tình cảnh bạn tui mà thương quá. Năm nay hắn 42 tuổi rồi, có bằng Tiến sĩ, thu nhập ổn định, gia đình quý tộc, gia sản giàu có. Tui viết lên đây giới thiệu với mọi người, cô nào, bà nào thấy hợp với hắn cứu dùm bạn tui. Chứ kiểu này gia đình này tan hoang vì tuyệt vọng.
Muốn gặp hắn để tìm hiểu thêm cứ đến Viện khoa học thành phố, số...đường.., trong giờ làm việc, sẽ gặp một người đàn ông trung niên, dáng dong dỏng cao, mặt đẹp như trẻ con, đeo kiếng cận dày, mắt lúc nào cũng nhìn xa xăm, người như ở thế giới khác, đích thị là hắn. Ngoài giờ làm việc, có thể gặp hắn với bố mẹ ở biệt thự .., số ... đường..,,, ngôi nhà người ta đã đưa giá gần mấy trăm tỳ đồng mà bố mẹ hắn không chịu bán.  Hắn là Tiến sĩ Trần Văn T. Ai cứu hắn không? Tui không muốn nhà chùa có thêm một tu sĩ và biệt thư to lớn kia không có người kế thừa. Và hơn hết, tui không  muốn nhìn thấy một người đàn ông sắp qua tuổi ngũ thập tri thiên mệnh mà chưa biết tình yêu, chưa biết đàn bà.
3.2.2016
DODUYNGOC

Fb Đỗ Duy Ngọc

 


Đăng ngày 14 tháng 10.2020