banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Albert Camus

cây bút gắn bó với đời sống thế gian

Nguyễn Bảo Hưng

Albert Camus không thuộc loại nhà văn thích dậm chân tại chỗ, chỉ biết nhai đi nhai lại mỗi một chủ đề với những lập luận cũ rích và một mớ từ ngữ công thức sáo mòn. Theo dõi các tác phẩm ông lần lượt cho ra đời, ta thấy có một quá trình chuyển biến tâm tư theo dòng thời sự. Ta có thể cảm nhận điều này qua bài tựa ông viết để thêm vào cho cuốn L'Envers et l'Endroit trong ấn bản Camus - Toàn bộ gồm hai tập trong Tủ sách Bibliotheque La Pleiade do nhà xuất bản Gallimard ấn hành năm 1956.
Với bài tưa cho cuốn L'Envers et l'Endroit, Camus như muốn ta cùng ông làm cuộc hành hương về nguồn, cái nguồn trong lành như dòng sữa mẹ đã dìu dắt ông và nuôi dưỡng ông, giúp ông giữ được nguồn cảm hứng nguyên thủy trong suốt cuộc đời viết văn của mình. Như ông đã bày tỏ ngay trang đầu của bài tựa: "Mỗi nghệ sĩ đều giữ trong tâm khảm một nguồn cảm hứng duy nhất đã nuôi dưỡng suốt cuộc đời viết văn của anh ta...  Về phần tôi, tôi biết rằng nguồn cảm hứng ấy nằm trong L'Envers et L'Endroit, trong cái thế giới bần hàn nhưng chan hòa ánh sáng đã giúp tránh khỏi hai mối đe dọa đối nghịch nhau với mọi nghệ sĩ, đó là mối hậm hực và lòng tự mãn."* (Chaque artiste garde (ainsi), au fond de lui, une source unique qui alimente sa vie ce qu'il est et ce qu'il dit...  Pour moi, je sais que ma source est dans L'Envers et l'Endroit, dans ce monde de pauvreté et de lumière où j ai longtemps vécu et dont le souvenir me préserve de deux contraires qui menacent tout artiste, le ressentiment et la satisfaction. (Albert Camus - ESSAIS - L' Envers et l'Endroit, préface.- Bibliothèque La Pleiade, Gallimard 1956, p. 5 et 6). Tâm tình này, với ta, có thể là một nghịch lý, Nhưng phải là Camus và ở cảnh ngộ của ông, ta mới hiểu được.

Sinh ra ngày 7-11-1917 tại Belcourt, một khu phố bình dân lao động thuộc thành phố Alger trong một gia đình bần hàn. Cha ông là một thợ nông nghiệp, còn mẹ ông là một di dân gốc Tây Ban Nha lại thất học nên chỉ làm công việc của một femme de ménage, tức là phụ trách công việc trông nom nhà cửa và bếp núc cho các gia đình giàu có. Đã thế ông lại không may mắn sớm mồ côi cha, vì cha ông bị động viên và tử thương trong một trận đánh tại Marne ở Pháp. Trường hợp là tôi, chắc tôi không khỏi vò tai rứt tóc để la làng: tôi sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Nhưng Camus không hề cảm thấy như vậy, vì ông có được bà mẹ hiền hết lòng thương nên tận tụy lo cho ông và người anh được cắp sách đến trường như những đứa trẻ khác. Hết trung học, lẽ ra ông phải tiếp tục nghề của cha theo quyết định của ông cậu với quan niệm truyền thống gia đình: Con vua thì lại làm vua, là con thầy chùa về quét lá đa. Nhưng ông may mắn gặp được ông thầy giàu lòng nhân ái là Louis Germain, thấy ông học hành chuyên cần lại có năng khiếu nên can thiệp với gia đình và xin học bổng giúp ông ăn học lên tới đại học. Nhờ vậy mà trong những buổi cắp sách đến trường, ông còn được sống những giờ phút hồn nhiên vô tư trong những trò chơi lành mạnh với những bạn bè cùng lứa tuổi. Thêm vào đó, ông còn có thời gian rảnh rỗi đến thăm các địa danh mang tên Djaméla, Tipaza mà người đời mấy ai thèm biết đến. Nhưng với ông đây cũng là những giây phút hạnh phúc vì ông được làm những cuộc giao duyên (Noces) với cảnh đẹp thiên nhiên, bên trên là bầu trời rộng bao la phía dưới là nước biển màu xanh biếc với tiếng sóng rạt rào. Trong khung cảnh đó, ông còn có dịp tới viếng thăm các di tích lịch sử điêu tàn đầy cỏ mọc, nhưng với ông lại là cơ hội để làm quen với các nền văn minh La - Hy cổ xưa. Trong khung cảnh sinh hoạt ấy, ta mới hiểu tại sao ông cảm thấy hài lòng được sống giàu sang hạnh phúc như ông đã tâm tình cùng ta: "Sự nghèo khó, trước hết, với tôi, không hề là một điều bất hạnh: ánh sáng tràn lan sự giàu sang trên đó...  Đôi khi tôi gặp được những người sống giữa những tài sản tôi không tưởng tượng nổi. Tuy nhiên tôi phải cố gắng để hiểu tại sao người ta có thể ham muốn các tài sản đó... Sự xa hoa nhất, với tôi, đều trùng hợp với một sự túng thiếu nào đó). (La pauvreté, d'abord, n'a jamais été un malheur pour moi: la lumière y répandait sa richesse... Je rencontre parfois des gens qui vivent au milieu des fortunes que je ne peux pas imaginer. Il me faut cependant un effort pour comprendre qu'on puisse envier ces fortunes... Le plus grand des luxes n'a jamais cessé pour moi avec un certain dénuement. Sdd, tr 7). Câu chót này có vẻ là một nghịch lý, Nhưng với Camus, điều này có nghĩa là những kẻ càng được sống trong cảnh giàu sang nhung lụa bao nhiêu, họ lại càng sống xa rời với thế giới con người và thế giới tự nhiên bấy nhiêu. Như con chim quen hót trong lồng son không biết hưởng cái hạnh phúc được sống tự do bay lượn giữa bầu trời trong xanh lồng lộng. Vậy  khu phố Belcourt lao động bình dân đã trở thành một góc thiên đường với Camus là thế đó. Đồng thời nó cũng cho hiểu vì sao Camus, tuy có chuyển biến tâm tư, nhưng vẫn trung thành với nguồn cảm hứng ban đầu.
Nhưng trên cõi đời này có cái gì tồn tại vĩnh viễn đâu?  Cũng như có bông hồng tươi thắm nào sớm mai chớm nở mà tôi lại chẳng phai tàn? Thoạt nghe có vẻ cải lương hơi sến một chút đấy. Nhưng với Camus lại đúng là vậy. Đang sống vui hạnh phúc với khu phố nghèo nàn nhưng ấm áp tình người và chan hòa ánh sáng ấy, thì Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ. Trước những cảnh chết chóc tang thương, đổ vỡ hoang tàn, ông nay cảm thấy như ông A Dong và bà E Và bị bứng ra khỏi vườn đia đàng. Chỉ có điều khác biệt: ông A Dong và bà E Và vì lỡ nghe theo lời xúi dại của con rắn độc. Còn mối bất hạnh của Camus là do tham vọng muốn thay đổi thế giới để làm nên lịch sử của một vài nhân vật. Thế là trước mắt Camus, nay bỗng dựng lên bức tường phi lý dày đặc bóng tối. Vậy ta phải đối đầu với phi lý sao đây?  Câu truyện về nhân vật huyền thoại Sisyphe đã chỉ dẫn Camus con đường tìm ra câu giải đáp: Đó là bằng thái độ phản kháng để bày tỏ quyết tâm không cam phận, phục tùng, chứ không phải bằng sự nổi loạn bạo động để phủ nhận với tham vọng thay đổi trật tự thế giới. Camus đã chia xẻ cùng ta con đường ông chọn để đương đầu với phi lý qua ba tác phẩm tiêu biểu như sau: Caligula, La Peste (Dịch hạch) và Les Justes (Những kẻ công chính).

Là một bạo chúa trong lịch sử La Mã, Caligula khét tiếng là hiếu sát vì ra lệnh giết người vô cớ và vô luân vì ăn nằm chung chạ với Drasuila, em gái ruột và cũng là người tình ông thương mến nhất. Tuy nhiên mở đầu vở kịch, Caligula lại xuất hiện như là một ông vua nhân hậu, khoan dung, có triển vọng trở thành một đấng minh quân. Chỉ sau cái chết bất ngờ của Drasuila, Caligula mới biến thành bạo chúa với những sở thích độc địa, tùy hứng như tùy tiện ra lệnh giết người vô cớ hay bắt quần thần đi lấy mặt trăng về làm đồ chơi. Sự thay đổi tính tình đột ngột này của Caligula khiến đám quần thần ngơ ngác. Chỉ riêng Caligula mới hiểu được nguyên nhân khi một mình lẩm bẩm: "Mọi người đều chết và không có hạnh phúc" (Les hommes meurent et ils ne sont pas heureux et ils meurent - CALIGULA -  Acte I, sc. 4  Coll. Folio Gallimard 1950 p. 27). Vậy là cái chết của Drasuila đã làm Caligula tỉnh mộng, không còn nuôi ảo tưởng gì về cuộc sống thế gian. Do đó ông ta mới đột ngột thay độ tính tình. Một phần vì nổi loạn,  muốn thay đổi thân phận con người mà ông ta cho là phi lý. Phần khác là để thức tỉnh những ai còn nuôi ảo tưởng về hạnh phúc trường cửu trên đời này. Nhưng thái độ nổi loạn ấy chỉ là nỗ lực vô ích. Cuối cùng  chính Caligula lại trở thành nạn nhân cho khát vọng ảo tưởng đó.  
Đối nghịch với Caligula, chúng ta có bác sĩ Rieux trong La Peste. Tuy không nuôi ảo tưởng gì về thân phận phi lý con người. nhưng không vì thế mà Rieux cho là cuộc sống trên thế gian là vô nghĩa, là không đáng sống. Bởi vậy ông không nuôi tham vọng làm một người hùng hay nhân vật thần thánh nào đó để thay đổi bộ mặt thế gian. Tâm sự đó, ông đã chia xẻ cùng ta như sau: "Tôi không có sở thích với chủ nghĩa anh hùng hay thánh thiện. Điều làm tôi quan tâm, ấy là được làm con người". (Je n'ai pas de gout pour l'héroisme ou la sainteté. Ce qui m'intéresse, c'est d'être un homme. - La Peste -  Gallimard 1967 Coll. Folio, p.230). Chỉ muốn được làm được người, bởi vì Rieux đã tìm ra được lẽ sống bằng cảm thông (compréhension) với đồng loại cùng chung cảnh ngộ như mình, lấy việc chia xẻ buồn vui với họ làm lẽ sống. Bởi vậy ông mới có tinh thần phục vụ cao, hết lòng chăm lo sức khỏe cho mọi người. Và Rieux không hề cảm thấy cô đơn khi thấy có nhiều người cùng mang tâm trạng như mình. Thí dụ như trường hợp phóng viên Rambert của một tờ báo Paris,  Được phái tới công tác tại Oran, một thành phố của Algerie. chẳng được bao lâu thì có lệnh phong tỏa do bệnh dịch hạch ra tay hoành hành. Tự cho mình không có liên hệ gì với thành phố này nên lúc đầu Rambert tìm mọi cách trốn ra ngoài để trở về với người yêu ở Paris. Trong khi chờ được cơ hôi, Rambert nhận làm phụ tá cho Rieux, đồng thời để nhờ bác sĩ lấy uy tín giúp anh ta có phương tiện đào tẩu. Nhưng khi  gặp được thời cơ, phút chót Rambert lại quyết định không trốn đi. Trước cái nhìn thắc mắc dò hỏi của Rieux, Rambert chỉ ngắn gọn trả lời: "Thật là một điều tủi hổ khi chỉ lo hạnh phúc cho riêng mình" (Il y a honte à être heureux tout seul. Sdd, tr. 190) Sự thay đổi thái độ của Rambert giúp ta hiểu được tại sao Rieux lại gắn bó với cuộc sống thế gian và chỉ muốn được là con người. Như ông ta đã nhận định trong phần chót của câu truyện: "Trong những cơn đại dịch ta lại thấy nơi con người nhiều điều đáng chiêm ngưỡng hơn là để khinh bỉ". (On apprend au milieu des fléaux, qu'il y a plus de choses à admirer que de choses à mépriser". Sdd. tr. 279).
Nhưng tai họa thế gian không chỉ do dịch bệnh hay biến động thiên nhiên, mà còn do những kẻ ôm mộng hoang tưởng cải tạo thế gian như Caligula. Bởi vậy cũng có lúc con người thấy phải ra tay hành động. Không phải để thay đổi thế gian, mà là để thay đổi cuộc sống. Đó là trường hợp của Kaliaev hay Yanek trong vở kịch Les Justes (Những kẻ công chính) (1). Là thành viên của một tổ chức hoạt động bí mật nhằm lật đổ chế độ Nga hoàng chuyên chế áp bức, Kaliaev được tổ chức giao cho sứ mạng ôm bom lao vào chiếc xe của quận công Serge, một cận thần của Nga Hoàng, để sát hại ông ta. Bất ngờ đúng ngày phải ra tay hành động, trên xe lại có hai trẻ nhỏ là những đứa cháu của quận công, Thấy không thể bắt những đứa trẻ trở thành nạn nhân vô tội, Kaliaev đành ôm bom trở về. Kaliaev liền bị Stepan, một thành viên quá khích trong tổ chức, lên án là hèn nhát và phán rằng đã làm cách mạng thì không có giới hạn. Kaliaev đã thẳng thắn đáp trả: "Tôi chấp nhận giết người là để lật đổ chuyên chế. Nhưng đằng sau điều anh vừa nói, tôi lại thấy báo hiệu một nền chuyên chế mới mà, nếu trở thành hiên thực, nó sẽ biến tôi thành một tên sát nhân trong khi tôi chỉ muốn làm kẻ thi hành công lý". (J'accepte de tuer pour renverser le despotisme. Mais derrière ce que tu dis je vois annoncer un despotisme qui, s'il s'installe jamais, fera de moi un assassin alors que j'essaie d'être un justicier. - Les Justes, Acte II, p. 63 * Folio). Ba ngày sau, gặp quận công một mình trên cỗ xe, Kaliaev đã quyết đinh hi sinh ôm bom phóng vào để hoàn thành sứ mạng.
Mấy nhân vật biểu tượng trong ba tác phẩm nêu trên cho thấy sư chuyên biến tâm tư nơi Camus không hề là một tách lìa với nguồn cảm hứng nguyên thủy. Nó chỉ là kết quả, của một sự trưởng thành trong khói lửa, theo cách nói của dân lính tráng miền Nam chúng tôi trước đây. Cũng nhờ có được sự trưởng thành trong khói lửa ấy, Camus mới ý thức được vai trò và trách nhiệm của người nghệ sĩ nói chung, người cầm bút nói riêng trước diễn biến lịch sử. Và ông đã làm sáng tỏ ý thức này về vai trò của người làm công tác văn học nghệ thuật trong hai bài diễn từ đọc tại thủ đô Stockhom nhân dịp tới nhận giải thưởng văn học Nobel.

Trong bài diễn từ đọc ngày 10-10-1957 để nhận giải, Camus đã nói lên nỗi bàng hoàng xúc động khi biết được trao tặng giải thưởng cao quí này. Ông cho rằng sở dĩ ông được cái vinh dự cao quí đó là do ông đã thực hiện đúng vai trò và trách nhiệm của người làm văn học: đó là không dùng ngòi bút để phục vụ những kẻ muốn làm nên lịch sử, mà phải phục vụ những kẻ là nạn nhân của những tham vọng làm nên lịch sử. Với Camus đó chính là một chức năng cao qui nhưng khó khăn, đòi hỏi người cầm bút phải tôn trọng hai điều cam kết không phải dễ dàng. Đó là: không dối trá về những gì mình biết và chống lại sự áp bức. Trách nhiệm và vai trò này, ông đã dành cho buổi nói chuyện (conférence) tại đại giảng đường đại học Upsal ngày 14-12-1957 để trình bày làm sáng tỏ. Bài nói chuyện khá dài. Tôi xin chỉ tóm lược những điểm chính như sau.
Mở đầu bài nói chuyện, Camus đã mượn lời một hiền triết Đông phương mỗi ngày đều cầu nguyện thần linh tránh cho ông ta khỏi phải sống trong một thời đại đáng chú ý. Nhưng Camus lại cho rằng thế hệ ông không có may mắn nên phải sống trong một thời  đại đáng chú ý với hai cuộc Đại Thế Chiến xảy ra. Trước những cảnh tượng chết chóc đau thương và đổ vỡ điêu tàn, Camus cho rằng nhà văn có ý thức trách nhiệm không thể tiếp tục giam mình trong tháp ngà để tìm lời hoa mỹ ca ngợi trăng sao hay kể những câu chuyện tình mùi mẫn ướt át. Anh ta phải coi mình như kẻ đã "bước xuống tàu", hay "embarque" theo từ sử dụng Camus. "Bước xuống tàu" hay "embarque" không đồng nghĩa với "dấn thân" hay "engagé". Dấn thân có thể là hành động hào hiệp của một kẻ ngoại cuộc giữa đường thấy sự bất bình chẳng tha. Nhưng dấn thân đôi khi cũng nghĩa là do quá nhiệt tình hay đam mê mù quáng nên trở thành một kẻ cuồng tín, dù là  cho một tín ngưỡng, chủ nghĩa hay ý thức hệ. Nhìn vào những cuộc tranh chấp, chém giết nhau đang còn diễn ra giữa các bè nhóm, phe phái trong cùng một cộng đồng, cùng một dân tộc hay cùng một tôn giáo, ta thấy hành động dấn thân có thể dẫn đến hậu quả tai hại như thế nào. Còn bước xuống tàu, trái lại theo Camus, một thái độ khiêm tốn hơn chỉ nên coi như là thi hành một nghĩa vụ quân sự (ll s'agit plutôt d'un service militaire). Điều này có nghĩa là người cầm bút ngày nay phải coi mình như đang trên một chuyến tàu gian nan gặp phong ba bão tố nên phải biết tham dự, đóng góp vào nỗ lực chung với khách đồng hành để giũ cho con tàu chao đảo khỏi bị chìm đắm. Là nhà văn, Camus cho rằng ông phải đứng ra đảm nhiệm hai nghĩa vụ rất khó khăn không dễ gì hoàn tất. Đó là: "Không dùng ngòi bút để phục vụ cho những kẻ ôm tham vọng làm lịch sử, mà là phục vụ cho những kẻ phải hứng chịu lịch sử. Cho dù có mắc khiếm khuyết nào, thì sự cao quí của nghề viết văn phải đặt nền móng trên hai cam kết không dễ gì tôn trọng: không được dối trá về những điều mình được biết, và cưỡng lại sự áp bức. (Il ne peut se mettre au service de ceux qui font l'histoire: il est au service de ceux qui subissent l'histoire. ... La noblesse de notre métier s'enracinera dans deux engagements difficiles à maintenir: mentir sur ce que l'on sait et la résistance à l'oppression. - Discours de Suede. ESSAIS, Biblio. La Pleiade, p. 1072).
Muốn làm tròn hai nghĩa vụ khó khăn này, người nghệ sĩ nói chung, nhà văn nói riêng, cũng phải đáp ứng hai đòi hỏi khắt khe không kém. Trước nhất là phải quí trọng chữ nghĩa, tôn trọng sự trong sạch của chữ nghĩa. Các từ càng mang ý nghĩa cao đẹp bao nhiêu, ta càng phải đối xử thận trọng bấy nhiêu. Còn như sử dụng chúng một cách tùy tiện, ta dễ làm chúng bị hoen ố, trở thành cô gái điếm, chẳng khác chi gã sở khanh dùng lời đường mật gạt gẫm Thúy Kiều, để đẩy tấm thân ngà ngọc của nàng vào chốn thanh lâu cả. Tôi dùng hai chữ gái điếm để tạm dịch từ prostituer, Camus đã không ngại sử dụng hai lần trong bài viết của ông. "Ta không được biến vô tội vạ các từ thành những cô gái điếm. Ngày nay giá trị của từ tự do lại là giá tri bị làm hoen ô nhiều nhất"  (On ne prostitue pas impunement les mots. La valeur la plus calomniée aujourd'hui est certainement la valeur de la liberté". Camus,  ESSAIS, Discours de la Suede, Bibliotheque La Pleiade, p.1082). Rồi chỉ vài trang sau đó ông lại viết: "Chỉ khi nào từ tự do được trở thành mối hiểm họa, khi ấy nó mới hết mang thân phận gái điếm" (Si la liberté est devenue dangereuse, alors elle est en passe de ne plus être prostituée. Sdd, tr. 1095). Với nhận định này, ý Camus muốn nhắc nhở ta rằng hai chữ tự do không phải là loại quà cho không biếu không, mà người thực sự yêu tự do đôi khi phải trả giá bằng chấp nhận bị đàn áp, tù đày của bản thân. Đó là trường hợp của các nhà đấu tranh tù nhân lương tâm tại các nước dưới chế độ độc tài toàn trị. Phát biểu trên cũng khiến ta không khỏi liên tưởng tới hai chữ tự do đã được một số người Việt ở hải ngoại suy diễn và sử dụng như thế nào. Được đến sống tại một quốc gia dân chủ tự do, họ cho rằng thế là từ nay mình có quyền tha hồ tùy tiện ăn nói. Ưa ai thì bốc lên tới trời xanh, còn ghét ai không tiếc lời nhục mạ. Thậm chí họ còn bóp méo sự thật, tung ra những nguồn tin thất thiệt, biến chúng thành những thuyết âm mưu nhằm gây chia rẽ, khích động hận thù, đôi khi còn nuôi dưỡng hận thù giữa một tập thể, một cộng đồng, thậm chí một dân tộc trong cùng một đất nước. Đám người này đâu có hiểu rằng tự do không phải là thứ quà tặng theo kiểu tình cho không biếu không, mà phải là biểu hiện cho sự trưởng thành của đời sống tâm linh nên bao giờ cũng cần được đi kèm với tinh thần trách nhiệm. Bởi vậy chỉ thực sự yêu tự do những ai đôi khi dám chấp nhận trả giá bằng chính bản thân mình. Thí dụ như những nhà đấu tranh tù nhân lương tâm chẳng hạn.
Nhưng giữ cho ngòi bút được liêm khiêt mới chỉ là điều kiện ắt có, chưa phải đã đày đủ. Người cầm bút liêm khiết còn phải biết tránh để đừng sa vào một vài cái bẫy, để công trình nghệ thuật của họ không biến thành một thứ xa xỉ phầm dối trá (un luxe mensonger).  Trước hết, theo Camus, chúng ta nay đã bước vào kỹ nguyên của xã hội mại bản (société marchande), hay xã hội tiêu thụ ngày nay. Do đó mọi sản phẩm, kể cả sản phẩm văn hóa, đều có thể trở thành món hàng tiêu thụ chạy theo sở thích của khách hàng. Điều quan trọng với họ không phải là sáng tác có giá trị văn hóa, mà là các sản phẩm được giới tiêu thụ ưa thích. Với họ, miễn sao tên tuổi hay tác phẩm của mình được nhiều người nhắc đến hay biết đến mới là quan trọng. Họ không biết rằng thành công như thế chỉ làm chết đi con người nghệ sĩ chân chính nơi họ. Bởi vậy càng gặt hái được thành công về mặt danh vọng, tiền tài trên thị trường chữ nghĩa bao nhiêu, nhà văn càng đánh mất bản chất con người nghệ sĩ chân chính nơi mình, với kết quả là anh ta chỉ tung ra thị trường những sáng tác thuộc loại xa xỉ phẩm dối trá.
Bên cạnh cái bẫy do danh vọng tiền tài giăng ra, nhà văn cũng có thể sa vào một cái bẫy khác: Đó là uốn cong ngòi bút để dối trá, mua chuộc  quyến thế, và bỏ qua những đòi hỏi chính đáng của quần chúng. Thí dụ như mấy câu thơ của Tố Hữu bày tỏ lòng thương tiếc Staline được tôn lên hàng vĩ nhân: "Thương cha, thương mẹ, thương chồng. Thương mình thương một, thương ông thương mười" Đây chỉ là những câu thơ đầy dối trá nhằm phục vụ bạo quyền để mong hưởng được chút ân huệ. Như chúng ta đều biết, lich sử cho thấy Staline chỉ là một nhà độc tài khát máu đã sát  hại hàng chục triệu nông dân Nga hoặc đày đọa họ trong các goulag hay trại tù tập trung. Lẽ ra Tố Hữu nên dành mấy câu thơ bày tỏ lòng thương tiếc ấy cho hàng chục triệu nông dân Nga đã là nạn nhân trong các cuộc thanh trùng của Staline mới phải.

Kết
Ngày 4-1-1960 Camus đã bị thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi khi ông mới có 44 tuổi. Cái chết bất ngờ và phi lý ấy không vì thế làm cho tên tuổi ông ngày một chìm trong quên lãng. Trái lại, các biến cố thời sự đang dồn dập diễn ra đã cho thấy tính hiện đại hơn bao giờ của thông điệp ông để lại cho chúng ta qua toàn bộ các tác phẩm của ông. Ta có thể tóm lược nội dung thông điệp ấy qua mấy điểm chinh như sau:
Cuộc sống trên thế gian không phải bao giờ cũng là một góc thiên đường như khu phố bình dân Belcourt ông đã từng được sống từ thời niên thiếu cho tới khi trưởng thành. Trái lại, các biến cố thiên tai cũng như các biến động lịch sử hiện nay, như bệnh dịch Covid-19 hay hiểm họa một cuộc thế chiến nguyên tử có thể xảy ra, đã làm ta nay không còn cái cảm giác an toàn của du khách trên tàu trong một chuyến du lịch nhàn hạ. Trái lại, con tàu thế gian của chúng ta nay đã trở thành một thứ con tàu say (bateau ivre) chuếnh choáng điên đảo giữa một vùng trời đầy bão tố. Trong hoàn cảnh đó, Camus cho rằng mình cũng như mọi hành khách trên tàu, phải đóng góp vào nỗ lực chung để giữ cho con tàu khỏi bị dắm chìm. Nhưng chỉ với tư cách là người đã bước xuống tàu thôi. Đừng có tìm cách giành giựt tay lái để được làm người cầm lái vĩ đại khiến con tàu càng thêm dễ bị lật chìm. Bởi vậy, trong cương vị một nhà văn, Camus cho rằng vai trò của mình không  phải đứng về phe những kẻ muốn làm nên lịch sử, mà về phía những người phải chịu đựng lịch sử. Đây là một cuộc chiến đấu trường kỳ, vì con tàu thế gian không ngớt phải đương đầu với đủ mọi tai họa do đủ loại vi khuẩn gây ra. Mà loại vi khuẩn độc hại nhất lại do nơi con người, hay đúng ra là nơi những con người nuôi tham vọng cải tạo thế giới gây ra.
Phải chăng đó chính là thông điệp Camus muốn nhắn nhủ và nhắc nhở chúng ta trong lời kết cuốn La Peste của ông: "Có thể sẽ có ngày, cho sự bất hạnh cũng như cho sự học hỏi của con người, dịch hạch sẽ đánh thức dậy những con chuột giúp họ được tới chết trong một chốn đô thi hạnh phúc". (Peut-être, le jour viendrait où, pour le malheur et l'enseignement des hommes, la peste réveillerait ses rats et les enverraient dans une cité heureuse. - LA PESTE, Folio, p. 279). Chốn đô thị hạnh phúc, với Camus và theo tôi hiểu, chính là cõi mà ở đó hết thẩy mọi người, bất kể sang hèn, người chính trực kẻ bất lương, đều được dành cho một chỗ làm nơi ngàn thu an nghỉ. Hàn Lâm Viện Thụy Điển quả đã không lầm để chọn mặt gửi vàng khi trao tặng cho Camus giải thưởng văn học Nobel cao quí này, như là để tưởng thưởng một công trình văn học "đã đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt cho lương tâm loài người của thời đại chúng ta". (Pour récompenser une oeuvre "qui met en lumière les problèmes se posant de nos jours à la conscience des hommes"). Thời đại của chúng ta không chỉ có là thế kỷ 20 của Camus, mà còn là thời đại ngay bây giờ, khi mà những con vi khuẩn thuộc loại bành trướng lãnh thổ hay muốn làm bá chủ thế giới đang ngo ngoe đòi ngóc cổ dậy.
(Bắt đầu hạ bút viết ngày 10-9-2022, viết xong ngày 8-11-2022)
Nguyễn Bảo Hưng
    
https://www.facebook.com/sam.nguyen.7505468   



Đọc lại Camus, nhà văn nhân bản

Nguyễn Bảo Hưng

Viết để suy ngẫm về các vụ khủng bố tàn bạo và không khí thù hận vẫn còn bao trùm thời đại chúng ta.

Cái tên Albert Camus hẳn không xa lạ đối với độc giả Việt Nam. Có thể nói ông cùng với J P Sartre là hai nhà văn đương đại Pháp được đọc nhiều hoặc ít ra cũng được nghe nhắc đến nhiều nhất.

Nếu như Sartre với nhân vật Roquentin trong cuốn La Nausée được ca tụng là nhà văn của chủ nghĩa hiện sinh, thì tên tuổi Albert Camus, trái lại, được gắn liền với nhân vật Meursault trong cuốn L’Etranger như là nhà văn của triết học phi lý. Có thể nói L’Etranger là tác phẩm của Camus được ưa chuộng nhất và cũng được dịch ra tiếng Việt nhiều nhất. Theo Nguyễn Văn Lục trích dẫn dịch giả Trần Thiện Đạo, riêng cuốn L’Etranger đã lần lượt được các dịch giả sau đây chuyển ra tiếng Việt: Người xa lạ, A. Camus (Võ Lang), nxb Thời Mới 1965. Kẻ xa lạ (Dương Kiền và Bùi Ngọc Dung), nxb Ngày Nay 1965. Kẻ xa lạ (Lê Thanh Hoàng Dân và Mai Vi Phúc), nxb Trẻ 1973. Người dưng (Dương Tường), nxb Văn Học, Hà Nội 1995. Và mới đây nhất Kẻ xa lạ (Nguyễn Văn Dân), nxb Văn Hóa, Hà Nội 2002.(1) Hiện tượng thi đua dịch cuốn «L’Etranger» khiến hình ảnh Meursault, nhân vật người hùng của câu truyện kể, trở thành phổ biến và tên tuổi A. Camus, vì vậy, cũng được gắn liền với cuốn L’Etranger như là nhà văn của ý thức phi lý. Bản thân tôi, trong bài viết «Dịch là phản?» (2) mới đây, khi nhắc tới nhân vật Meursault ngay trong phần mở đầu, cũng đã vô tình đóng góp vào việc nuôi dưỡng cái khí quyển phi lý bao trùm không gian văn học Camus và tô đậm thêm chân dung nhà văn của phi lý nơi ông. Nhưng một loạt biến cố thời sự từng gây chấn động dư luận hồi đầu thế kỷ làm tôi sực nhớ tới một bài viết về Camus cho mục văn học nghệ thuật đọc trên đài RFI cách đây khoảng ba chục năm (3) và liên tưởng tới những gì mình vẫn còn được chứng kiến bằng tai nghe mắt thấy trong cuộc sống hàng ngày.

Biến cố thời sự tôi vừa nhắc đến, là vụ một thanh niên Pháp gốc người Algérie, Mohamet Merah 23 tuổi, sáng ngày 19/3/2012 đã bất ngờ sấn tới nổ súng bắn chết một giáo viên cùng ba trẻ em học sinh trước cửa một trường học tại Toulouse chỉ vì họ là dân Do Thái. Thành thực mà nói, vụ sát hại này, về mặt tổn thất nhân mạng, cũng chẳng lấy gì làm khủng khiếp cho lắm so với con số hàng chục có khi lên tới hàng trăm người bị chết hoặc bị thương trong các vụ khủng bố hoặc đàn áp dân chúng tại nhiều nơi trên thế giới. Như, tại Trung Đông cách đây không lâu, vụ quân chính phủ dùng vũ khí hóa học tại một khu ngoại ô Damas, thủ đô Syrie, gây chết chóc cho gần hai trăm thường dân mà đa số nạn nhân là trẻ em và phụ nữ. Tiếp đó là vụ quân khủng bố djihad thuộc phe Hồi giáo cực đoan không ngần ngại cắt cổ như ngóe hàng loạt con tin hoặc tù binh chiến tranh, sau đó còn đem khoe khoang phô bày như là thành tích chiến công cho cuộc thánh chiến của họ. Rồi, chỉ ít lâu sau, ngày 16-12-2012 quân phiến loạn taliban đã bất ngờ đột nhập một trường học tại Pakistan thẳng tay hạ sát một lúc 132 học sinh chỉ vì các em là con cháu quân nhân thuộc phe chính quyền mà họ chống đối. Với kỹ thuật truyền thông tiên tiến hiện đại, hàng ngày thiếu gì các tin tức thuộc loại này. Hình ảnh các vụ giết chóc xảy ra hầu như cơm bũa ấy, đã dần dà tạo nơi ta một thứ phản xạ dửng dưng của người ngoại cuộc được bình chân như vại, nhất là khi những cảnh chết chóc đó chỉ được hình dung bằng các con số khô khan trừu tượng. Tuy nhiên vụ thảm sát tại Toulouse, qua tường thuật của tuần báo Paris – Match số 3279 (22-28 Mars 2012) vẫn để lại trong tôi một ấn tượng xúc động kinh hoàng.
Theo bài báo, đúng 7g54 sáng thứ hai 19-3-2012, sau khi lái xe moto tới trước một ngôi trường trung học Do Thái, tên Merah đã dùng súng bắn chết một giáo viên người Do Thái cùng hai đứa con trai lên ba và lên năm đang đứng trước cổng trường. Sau đó tên Merah còn quay súng định hạ sát thêm bé gái Myriam bảy tuổi, con của vị hiệu trưởng trung học cũng dân Do Thái. Nhưng do súng kẹt đạn, em Myriam chỉ bị thương nên chạy trốn vào trong sân trường. Nhất định không tha, tên Merah phóng mình rượt theo nắm bắt em, rút trong người ra một khẩu súng khác và hạ sát em. Tôi rùng mình khi tưởng tượng ra cảnh em bé ngây thơ vô tội đó hai tay ôm mặt, thân hình co quắp lại vi sợ hãi, trong khi tên sát nhân, bất chấp tiếng rú thất thanh và khuôn mặt rúm ró của em đã lạnh lùng bắn vào màng tang em. Tôi còn kinh hoàng hơn nữa khi được biết động cơ của hành vi sát nhân dã man này, theo lời tự thú của đương sự trong một cuộn băng vidéo thu sẵn định nhờ truyền thông phổ biến, là nhân danh chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan và để trả thù cho các trẻ em Palestine nạn nhân của người Do Thái. Mấy chi tiết sống sượng này đã ám ảnh tâm trí tôi, làm tôi thắc mắc tự hỏi: Sự thật có đúng như vậy không? Nếu quả là đúng, bước vào kỷ nguyên tin học ở thế kỷ 21 này chúng ta thực sự đã ra khỏi tình trạng dã thú để có thể tự hào là thuộc về nhân loại văn minh tiến bộ hay không? Hay, những phát minh khoa học diệu kỳ đem lại cải thiện đời sống vật chất đáng kể, nhưng không đi kèm với tiến bộ của lương tri, chỉ dẫn đến hủy hoại tâm hồn, như lời cảnh báo của Rabelais đã vang vọng ngay từ đầu thế kỷ thứ 16. («Science sans conscience n’est que ruine de l’âme», Rabelais, Gargantua, Livre I,17)). Tôi thắc mắc tự hỏi không phải riêng vì Merah là người gốc Ả Rập và y đã ra tay hành động nhân danh các chủ thuyết tôn giáo và chủng tộc.
Chưa đầy một tháng sau vụ thảm sát tại Toulouse thì tại Oslo, thủ đô xứ Na Uy lại dội lên vụ án Anders Breivik, một thanh niên Na Uy theo chủ nghĩa quốc gia cực đoan, ngày 22-7-2012 đã thẳng tay hạ sát 77 nhân mạng cùng làm bị thương hàng chục người khác tới dự một cuộc họp biểu tình của các nhóm thiên tả, trong đó có nhiều người theo đạo Hồi. Ra tòa, Breivik chẳng những không hề tỏ vẻ ăn năn, mà còn cho việc làm của mình là hành vi tự vệ chính đáng để bảo vệ đất nước Na Uy khỏi sự xâm nhập và bành trướng của đạo Hồi. Cả Merah lẫn Breivik, trong hai vụ này, đều tự cho mình cái quyền sinh sát nhân danh các chủ thuyết hay tín ngưỡng của họ. Chính thái độ cuồng tín ấy làm tôi chợt nhớ tới nhân vật Kaliayev trong vở «Les Justes» của Albert Camus, khiến tôi muốn tìm đọc lại vở kịch này. Nhưng giữa hành động khủng bố của Mahomet Merah và nhân vật Kaliayev trong vở «Les Justes» có sự liên hệ nào? Trước khi đi vào trả lời, có lẽ ta cần tìm hiểu qua nội dung và ý nghĩa vở kịch của Camus.

Kaliayev là một nhân vật có thật và vở kịch « Les Justes » cũng dựa trên một sự kiện lịch sử có thật: vụ ám sát quận công Serge, nhân vật tiêu biểu cho chế độ độc tài sắt máu Nga Hoàng tại Moscou ngày 17-2-1905. Là thành viên của một tổ chức khủng bố thuộc Đảng Xã Hội Cách Mạng Nga thời đó, Kaliayev được giao sứ mạng liệng bom vào xe chở quận công Serge để sát hại ông ta. Âm mưu ám sát lần đầu không thành vì bữa đó trên xe, ngoài quận công Serge, còn có hai đứa cháu nhỏ đi cùng. Kaliayev đã không ra tay hành động vì thấy không thể bắt hai trẻ em vô tội phải hi sinh vô ích. Hai ngày sau, khi chỉ còn mình quận công Serge, Kaliayev đã hoàn thành sứ mạng và bị bắt. Nhất định không khai đồng đội, Kaliayev chịu bị hành quyết khi còn là sinh viên mới hai mươi sáu tuổi. Trong vở kịch, Camus đã giữ nguyên cái tên Kaliayev cùng một vài nhân vật khác, cũng như ông đã tôn trọng diễn biến của hành động khủng bố ám sát. Nhưng Camus đã mượn tên các nhân vật và sự kiện lịch sử này không chỉ cốt để dựng lại lịch sử hay luận về lịch sử, mà chủ đích là để nêu lên một vấn đề nóng bỏng ngày càng được đặt ra cho thời đại chúng ta: Vấn đề phương tiện và cứu cánh trong hành động cách mạng. Hay, cụ thể hơn: Để thực hiện lý tưởng phục vụ con người, ta có quyền tự cho phép làm bất cứ điều gì, kể cả hành động sát nhân, hay ta không thể, vì chủ nghĩa lý tưởng và nhân danh chủ nghĩa lý tưởng, mà cướp đoạt quyền sống tha nhân?

Trong vở kịch, hai nhóm nhân vật đại diện cho hai quan niệm hành động khác nhau đã nói lên quan điểm của Camus về vấn đề này.
Một bên là Stépan đại diện cho nhóm người cách mạng khủng bố chuyên nghiệp, lấy việc xây dựng một trật tự xã hội mới làm cứu cánh và thù hận làm động cơ hành động. Ta có thể gọi họ là những con người cách mạng tha hóa (des révolutionnaires aliénés). Là những robot cách mạng, những con người chỉ có cái đầu mà không có trái tim, họ không tin rằng tham gia cách mạng còn có thể là những con người bình thường và vẫn có thể sống như một con người bình thường. Bởi vậy ngay buổi hội kiến lần đầu, Stépan đã tỏ vẻ khó chịu trước một vài biểu hiện lạc quan yêu đời của Kaliayev và nghi ngờ về khả năng đi làm cách mạng nơi anh. Rồi tới khi nghe nói Kaliayev tự phong mình là nhà thơ và cho rằng «thơ cũng là cách mạng», y đã lạnh lùng đáp: «Chỉ có bom đạn mới cách mạng» («Seule la bombe est révolutionnaire» - A.Camus - Les Justes, p.21.- Folio, Editions Gallimard 1950). Tiếp đến, khi thấy Kaliayev lủi thủi quay về chỉ vì trên xe còn có hai trẻ nhỏ, Stepan đã không ngần ngại quả quyết: «Ngày nào chúng ta quyết định quên đi những đứa trẻ, ngày đó, chúng ta sẽ làm chủ thế giới và cách mạng sẽ thành công» (Quand nous nous déciderons d’oublier les enfants, ce jour-là, nous serons maitres du monde et la révolution triomphera» - Sđd. tr. 59). Rồi khi nghe Dora, người yêu của Kaliayev, phản biện: «Ngay cả trong hủy diệt, cần có một trật tự, cần có những giới hạn» (Même dans la destruction, il y a un ordre, il y a des limites). y liền hung hăng kết tội: «Không cần có giới hạn. Sự thật là mấy người không tin vào cách mạng» («Il n’y a pas de limites. La vérité est que vous ne croyez pas à la révolution» - Sdd. tr. 62). Qua một vài mẩu đối thoại trên, ta có thể xếp Stepan thuộc loại con người cách mạng tha hóa. Với những con người như vậy ta không lạ gì nếu, sau khi cách mạng thành công, họ đã khư khư bám lấy quyền hành, dựa vào chủ nghĩa nhằm củng cố quyền hành, để rồi cuối cùng sự đam mê quyền hành đã biến họ trở thành những bạo chúa tha hóa. (4).Ta có thể coi những Staline, những Mao Trạch Đông, những Polpot, và nay là những Kim Jong Un… đều là những khuôn mặt cách mạng tha hóa thuộc diện này.
Khác với Stépan, ta có thể gọi Kaliayev cùng người yêu Dora là những nhà cách mạng nhân bản (des révolutionnaires humanistes). Họ đến với cách mạng không chỉ với cái đầu mà còn bằng trái tim, nghĩa là họ vẫn là những con người còn biết yêu: yêu bản thân, yêu người yêu, yêu đồng loại, yêu cái buồn cái vui, cái thương cái ghét, cái làng cái xóm, cái hoa cái bướm, cái nắng cái mưa… tất cả những cái bình thường nhưng ý vị đem lại ý nghĩa cho đời sống trên thế gian này. Đó mới là động cơ thúc đẩy họ gia nhập cách mạng. Ta hãy nghe Kaliayev tâm sự với Dora: «Anh yêu cái đẹp, anh yêu hạnh phúc! Chính vì vậy anh mới ghét bỏ sự chuyên chế áp bức… Làm cách mạng, dĩ nhiên rồi! Nhưng làm cách mạng là để vun trồng sự sống, là để tạo thêm cơ hội cho cuộc sống, em có hiểu không?» («J’aime la beauté, le bonheur! C’est pour cela que je hais le despotisme. La révolution bien sûr! Mais la révolution pour la vie, pour donner une chance à la vie, tu comprends?» - Sdd. tr 36). Cũng bởi vậy, nên khi bị Stépan chỉ trích là anh có thể làm hỏng cơ đồ cách mạng chỉ vì muốn buông tha hai trẻ nhỏ, Kaliayev đã thẳng thắn trả lời: «Nhưng tôi, tôi lại yêu mến những con người đang sống trên cùng một trái đất như tôi. Họ mới là kẻ tôi muốn chào đón. Vì họ tôi mới đấu tranh, vì họ tôi mới chấp nhận hi sinh. Và tôi không thể nhân danh một thiên đường xa vời không lấy gì chắc chắn để mà đạp lên mặt những người anh em tôi. Tôi không thể nhân danh một nền công lý chết mà hành động để làm tăng thêm những bất công hiện tại» (Mais moi, j’aime ceux qui vivent sur la même terre que moi, et c’est eux que je salue. Et c’est pour eux que je lutte et que je consens à mourir. Et pour une cité lointaine, dont je ne suis pas sûr, je n’irai pas frapper sur le visage de mes frères. Je n’irai pas ajouter à l’injustice vivante pour une justice morte» - Sdd, tr. 65). Bởi dấn thân làm cách mạng do yêu mến con người và yêu chuộng công lý nên Kaliayev đã nhiều lần bức xúc trăn trở với ý nghĩ phải ra tay sát hại tha nhân. Nhưng rồi anh cũng tìm ra được giải đáp qua phần thố lộ dưới đây với Dora: «Một ý tưởng làm anh trằn trọc: chúng đã biến chúng ta thành những kẻ sát nhân. Nhưng đồng thời anh nghĩ là anh sẽ chết, thế là tâm hồn anh lắng dịu. Rồi anh mỉm cười và ngủ lại, như một đứa trẻ thơ» (Une pensée me tourmente: ils ont fait de nous un assassin. Mais je pense en même temps que je vais mourir, et alors mon cœur s’apaise. Je souris, tu vois, et je me rendors comme un enfant. Sdd. tr, 39)
Về phần Dora, người yêu của anh, tuy chưa phải sống cái bi kịch của con người công chính đi làm cách mạng như Kaliayev, nhưng lại có những âu lo khắc khoải khác. Trước hết là âu lo của một đồng đội. Gia nhập hàng ngũ cách mạng trước Kaliayev và cũng lớn tuổi hơn, Dora đã nhìn sự nhiệt tình hăng say của Kaliayev bằng cặp mắt đùm bọc âu lo của người chị với đứa em còn non trẻ. «Ồ! Yanek.(5) Anh nên biết, anh cần phải được cảnh báo. Một con người dẫu sao cũng là một con người. Quận công (lúc đó) có thể đang có tia nhìn cảm thông. Có thể anh sẽ thấy ông ta đang gãi tai hay cười nụ vui vẻ. Biết đâu trên mặt ông ta lại chẳng có một vết xước dao cạo. Và biết đâu lúc đó ông ta lại chẳng nhìn anh… » (Oh! Yanek, il faut que tu saches, il faut que tu sois prévenu! Un homme est un homme. Le grand-duc a peut-être des yeux compatissants. Tu le verras se gratter l’oreille ou sourire joyeusement. Qui sait, il portera peut-être une petite coupure de rasoir. Et s’il te regarde à ce moment là… - Sdd, tr.42). Cũng tham gia cách mạng như Kaliayev, nhưng từng trải hơn, kinh nghiệm hơn, nên Dora biết nhìn ra cái cạm bẫy mà Kaliayev có thể gặp phải: Khi ta trừu tượng hóa đối tượng đấu tranh bằng một ý niệm, bằng một biểu tượng cho sự bất công áp bức ta có thể chém giết không gờm tay. Nhưng khi phải đối diện một con người bằng xương bằng thịt với một vài điệu bộ của một con người bình thường - như ta - thì chính những biểu hiện bình thường ấy đã làm ta phải ngần ngại.

Cái tuyệt tác của văn chương Camus là thế đó. Là ở chỗ ông đã khéo chọn thể loại kịch để khai thác khả năng truyền đạt của ngôn ngữ kịch trong những trạng huống đặc biệt. Chỉ bằng một vài mẩu đối thoại nho nhỏ, đôi ba chi tiết cỏn con, ông cũng cho ta thấy được khoảng cách vời vợi giữa những kẻ đầu cơ cách mạng để thực hiện tham vọng ngông cuồng của họ, và những con người chân chính đến với cách mạng chỉ vì tha thiết với cuộc sống và quý trọng con người.
Nhưng Dora không chỉ có là đồng đội mà, trước hết, còn là một con người đang yêu và được yêu. Bởi vậy nàng mới phải sống một thảm kịch riêng. Nếu như Kaliayev, bằng hi sinh tính mạng, đã có thể an tâm lên đường làm Kinh Kha tráng sĩ hề một đi không trở lại, thì Dora, trong cương vị người yêu bất lực, lại phải sống thấp thỏm lo âu trước viễn ảnh cuộc tình có thể vĩnh viễn dở dang. Bởi vậy tuy không muốn làm cho Kaliayev phải anh hùng khí đoản, Dora cũng có lúc không trấn áp nổi cái nhi nữ thường tình của mình: «Máu đã đổ nhiều quá, bạo lực cũng nhiều quá. Những kẻ thực tình yêu công lý lại không được quyền hưởng lạc thú yêu đương. Họ phải đứng đậy như em, cái đầu ngửng cao, cặp mắt nhìn thẳng. Liệu có chỗ đứng nào cho tình yêu trong những trái tim kiêu hãnh này? Tình yêu làm cho cái đầu mềm mại cúi xuống, Yanek. Vậy mà anh và em, chúng ta cứ phải ngửng cổ cao» (Il y a trop de sang, trop de dure violence. Ceux qui aiment vraiment la justice n’ont pas droit à l’amour. Ils sont dressés comme je suis, la tête levée, les yeux fixes. Que viendrait faire l’amour dans ces cœurs fiers? L’amour courbe doucement les têtes, Yanek. Nous, nous avons la nuque raide. Sdd. tr.84). Rồi khi nghe Kaliayev tìm lời an ủi: «Nhưng chúng ta yêu nhân dân… (Vì nhân dân) chúng ta cho hết, hi sinh hết mà không hi vọng được đền bù, đó chính là tình yêu» (Mais nous aimons notre peuple… Mais c’est cela l’amour, tout donner, tout sacrifier sans espoir de retour. Sdd - tr.84), nàng đã trút hết nỗi lòng bằng những lời hầu như nức nở: «Có thể. Đó chính là tình yêu tuyệt đối, niềm vui tinh khiết và cô đơn, và đó cũng là cái đang nung nấu trong em. Tuy nhiên cũng có lúc em tự hỏi liệu tình yêu có thể là một cái gì khác thay vì chỉ là những lời độc thoại(6)  và liệu, đôi khi, cũng có được câu trả lời. Anh biết không, câu trả lời đó em mường tượng như sau: ánh nắng lung linh, đôi mái đầu từ từ cúi sát, con tim từ bỏ niềm kiêu hãnh, những cánh tay mở rộng. Ôi! Yanek, nếu chúng ta có thể quên đi, dù chỉ là một giờ thôi, quên đi những thống khổ trên thế gian này để được cùng nhau sống buông thả. Quên đi để được sống ích kỷ với nhau chỉ trong một giờ ngắn ngủi thôi. Anh! anh có nghĩ như vậy không? » (Peut-être. C’est l’amour absolu, la joie pure et solitaire, c’est celui qui me brûle en effet. A certaines heures pourtant, je me demande si l’amour n’est pas autre chose, s’il peut cesser d’être un monologue, et s’il n’y a pas une réponse, quelquefois. J’imagine cela, vois-tu: le soleil brille, les têtes se courbent doucement, le cœur quitte sa fierté, les bras s’ouvrent. Ah! Yanek, si l’on pouvait oublier, ne fût-ce qu’une heure, l’atroce misère de ce monde et se laisser aller enfin. Une seule petite heure d’égoïsme, peux-tu penser à cela? Sdd. tr.84-85).
Vở kịch, như chúng ta đã biết, kết thúc bằng cái chết của Kaliayev. Hành động hi sinh quả quyết của anh đã làm thay đổi cách nhìn của Stépan khiến y biết cảm thông. Bởi vậy tuy được chỉ định thi hành sứ mạng kế tiếp, nhưng trước cái đau khổ tuyệt vọng của Dora, y đã nhường vinh dự ấy cho Dora để nàng có cơ hội được gặp lại người yêu trong một thế giới tốt đẹp hơn. «Les justes» do đó không chỉ có là bi kịch lịch sử, mà còn là bi kịch con người trong lịch sử hay, đúng ra, là bi kịch của thân phận những con người còn là người. Những con người biết thương biết ghét, biết vui biết buồn, biết sướng biết khổ, biết yêu biết hờn… nghĩa là tất cả những gì đem lại ý nghĩa cho đời sống con người trong một thế giới còn mang chiều kích con người. Riêng với những con người ở tuổi thanh xuân, thử hỏi có bi kịch thân phận nào bi đát hơn là bi kịch tình yêu? Bởi vậy Camus đã không quên mượn câu thơ của Shakespeare trong vở «Roméo et Juliette»: «O love! O life! Not life but love in death» (Ôi tình yêu! Ôi cuộc sống! Không phải sự sống mà là tình yêu trong cõi chết) để mở đầu cho vở kịch của ông. Với câu thơ này phải chăng Camus còn muốn nhắc nhở ta rằng sau mỗi biến động lịch sử, nếu như - vâng nếu như – đời sống xã hội có được phần nào cải thiện thì những người đang sống hôm nay chớ nên quên rằng những gì họ đang thụ hưởng đã được tạo nên bằng máu và nước mắt của những Dora, những Kaliayey, những con người công chính (les justes) quảng đại, không biết sống cho mình nhưng sẵn sàng dâng trọn tuổi thanh xuân để mong vun xới cho cây đời thêm được xanh tươi.(7)

Gần một phần tư thế kỷ đã trôi qua sau bài viết đầu tiên nói lên những cảm nghĩ của tôi khi được đọc vở “Les justes” của A. Camus. Với thời gian, con người đã thực hiện thêm được những bước nhảy vọt về mặt khoa học kỹ thuật. Nhưng các thành tựu khoa học ấy, đặc biệt về mặt kỹ thuật truyền thông, đã chẳng giúp cho con người xích lại gần nhau hơn, mà còn khiến các bức tường thù hận ngày dựng lên một nhiều, ngày một thêm dày đặc. Mới đây thôi, sự kiện quân khủng bố nhân danh chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan ra tay hành động trong cùng ngày thứ sáu 26-6-2015 tại Pháp, Tunisie và Koweit, gây chết chóc hoặc bị thương cho hàng trăm con người, lại được các cơ quan truyền thông quốc tế đua nhau phổ biến hình ảnh và tường thuật hấp dẫn, làm tôi thêm ngao ngán và thèm đọc lại “Les Justes” của Camus hơn bao giờ hết. Không phải để lẩn tránh hiện tại hoặc nhấm nháp ý vị văn chương tuyệt tác. Mà để thấm thía hơn tính hiện đại và nội dung nhân bản trong thông điệp ông muốn gửi đến chúng ta. Và cũng nhờ đọc lại, tôi phát hiện thêm rằng: Văn chương không chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng hoặc trò chơi chữ nghĩa để mưu cầu giải trí. Nó lại càng không phải là công cụ để phục vụ cho những chế độ toàn trị nhân danh chủ nghĩa hay những tham vọng quyền lực. Văn chương đích thực phải là và chỉ có thể là nỗ lực vươn lên không mệt mỏi của ý thức để tìm kiếm những giá trị mới đem lại một ý nghĩa mới cho dòng đời không hề ngừng chảy. Và văn chương càng có giá trị cao chừng nào khi nó càng được bắt rễ sâu vào mạch sống chừng nấy.
Hàn Lâm Viện Thụy Điển quả đã không lầm khi trao tặng Camus giải văn chương Nobel 1957 như là để tưởng thưởng “một công trình văn học đã đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt cho lương tri con người ở thời đại chúng ta” ("… pour couronner une oeuvre qui met en lumière les problèmes se posant de nos jours à la conscience des hommes". Theo Lagarde & Michard, XXè siècle, p.616) Tôi mong sẽ còn dịp trở lại với Camus để nói về một vài tác phẩm khác của ông. Tôi cũng mong sẽ có những đóng góp khác của các vị học giả uyên bác, các nhà phê bình chân chính, các bậc giáo sư tiến sĩ có thẩm quyền để cùng độc giả ra khỏi những lối mòn lầy lội và tạo điều kiện cho chúng ta tìm ra được sự đồng cảm và hiểu sâu hơn, hiểu rộng hơn về một nhà văn mà giá trị tư tưởng đã được thế giới công nhận.
NGUYỄN BẢO HƯNG
(Chép lại để cập nhật đêm 30-07-2020)

(1) Nguyễn Văn Lục: “20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975” – Hợp Lưu số 79 Tháng 10&11 năm 2004, tr.69
(2) Bài viết được đăng trên các trang mạng Chim Việt Cành Nam, Thư Viện Sáng Tạo và mới đây trên diễn đàn Khoahoc Doisong.
(3) Bài viết mang tựa đề “Cách mạng bạo động và cách mạng nhân bản qua vở Les justes của Albert Camus”, đọc trên Đài RFI khoảng đầu năm 1992 hay 1993, vì đã lâu ngày tôi không nhớ rõ. Bài viết ngắn hơn, thuần văn học hơn, ít mang tính chất thời sự hơn.
(4) Tôi chỉ mượn hình ảnh của Stépan trong phần đầu của vở kịch dùng làm biểu tượng cho con người cách mạng tha hóa mà thôi. Thực ra trong vở kịch Stépan không hoàn toàn như vậy.
(5) Dora quen dùng tên này để gọi thân mật Kaliayev.
(6) Độc thoại của những kẻ khủng bố ôm bom chờ đợi trong bóng tối miệng lẩm bẩm với những câu hỏi, những hồi hộp, những lo âu của mình.
(7) Dora trong vở kịch này làm tôi nhớ tới bác sĩ Đặng Thùy Trâm  với tập nhật ký của chị, đặc biệt doạn văn sau đây trong thư gửi người yêu: ”…Em nghe rồi, nhưng vẫn có lúc nào đó trong hai tràng tiếng nổ em nghe tiếng thì thầm của trái tim… Đó là khuyết điểm không thì tùy người đánh giá… Anh có khỏe không? Mong anh được bình an và khỏe, mãi mãi là người giải phóng quân cầm súng mà tâm hồn không phải chỉ có lửa đạn…” (Trích đoạn lấy lại trên trang mạng “Tin tức Bình Phước- www.binhphuoc.org.).
Đặng Thùy Trâm là bác sĩ trong quân đội nhân dân miền Bắc. Chị đã bị tử trận trên chiến trường gần Bến Hải. Nhật ký của chị được tìm thấy trong ba lô của chị và đã được cho phổ biến. Đọc mấy hàng trên đây của chị chúng ta mới thấy rằng trong mọi cuộc chiến, dù ở bên này hay bên kia chiến tuyến, ta vẫn gặp được những con người còn giữ được cho mình tâm hồn và trái tim con người.
Về phần Kaliayev, được chết mỉm cười hạnh phúc trong niềm tin vào sự hi sinh hữu ích của mình, tôi cho rằng Kaliayev đã có số phận may mắn hơn nhân vật Kiên trong “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh: Sống sót sau những cái chết bi thảm của đồng đội, rồi còn phải chứng kiến những cảnh đời trái tai gai mắt phơi bày sự khoe khoang hợm hĩnh như là một phỉ báng xấc xược vào các lý tưởng đấu tranh và sự hi sinh thiệt thòi của những con người đã nằm xuống. Kiên nhiều lúc phải sống trong hoang tưởng của kẻ mộng du do chấn thương tâm thần. Và anh chỉ biết đi tìm an ủi bằng sống ẩn náu trong quá khứ kỷ niệm, “bởi vì nhờ thế mà anh vĩnh viễn được sống trong những ngày tháng đau thương nhưng huy hoàng, những ngày bất hạnh nhưng chan chứa tình người (in đậm do tôi, NBH), những ngày mà chúng ta biết rõ vì sao chúng ta cần phải bước vào chiến tranh, chúng ta cần phải chịu đựng tất cả. Ngày mà tất cả đều còn rất son trẻ, trong trắng và chân thành” (Bảo Ninh : “Nỗi buồn chiến tranh”(*) – Nhà Xuất Bản Hôi Nhà Văn 1991, tr.283).
(*) Tác phẩm đã được Phan Huy Đường dịch ra Pháp ngữ với tựa đề: Le Chagrin de la guerre – Editions Philippe Picquier 1995. Tác phẩm cũng còn được dịch ra tiếng Anh, nhưng tôi không rõ tựa đề và tên người dịch.

https://www.facebook.com/sam.nguyen.7505468



Đăng ngày 04 tháng 12.2022