Thư gửi phe ta

người lính già oregon


Thưa quý bạn phe ta,

1. Tối nay, thứ năm 19/7, tôi lại được trực tiếp nói chuyện với Nguyễn Thị Tuyết Lan, mẹ của tù nhân Mẹ Nấm. Mở đầu, cô nói “em đã nhận và đọc bài của thầy viết về mẹ con em, do các bạn Thánh Tâm từ khắp nơi chuyển về cho em.” Tôi hỏi: “Và họ nói sao về bài đó?” Cô đáp: “Họ không tin bài đó là của thầy, vì thầy dạy tiếng Pháp không thể viết rành tiếng Việt như vậy.” Tôi cười vui.
Sau đó, cô thông báo là cho tới nay đã nhận được tiền ủng hộ của 13 vị và hứa, nói chuyện xong, sẽ nhờ tôi chuyển danh sách và lời cảm tạ của cô và con gái, Mẹ Nấm, đến tất cả ân nhân.

2. Tiếp theo, tôi xin hỏi vài câu về đời tư, gia đình và Như Quỳnh. Tôi chỉ lắng nghe, để cho cô nói tự nhiên, mà không lấy notes, không hỏi thêm chi tiết, chỉ ráng nhớ. Cô cho biết gia đình cô theo đạo Công giáo. Chồng cô, tức cha của Như Quỳnh, là một quân nhân Biệt Động Quân bị VC bắn bị thương. Cha cô mất đã lâu. Mẹ cô mất vào tháng 4, năm nay.
Gia đình cô, trước 1975, cư ngụ tại Thanh Hải (Đồng Đế), gần trường Trinh Vương của các bà sơ, nơi cô theo học khi nhỏ, và hàng tuần đi lễ tại nhà thờ Vĩnh Phước (An Tôn), mà cha tôi là “ông câu họ” (danh xưng bây giờ là Chủ tịch Hội Đồng Giáo Xứ), và ông cậu ruột cô, em của mẹ cô, là “ông biện Trung” (một thành viên trong HĐGX), ở gần nhà tôi. Cô biết, và nói đúng, tên cha mẹ tôi, và nhà tôi ở Xóm Bóng, đường Tháp Bà, “gần nhà cậu Trung của em”, và kể vanh vách tên những người cư ngụ tại Xóm Bóng trước 1975, mà chính tôi vì học ở Sài Gòn và đi lính xa chỉ biết mang máng. Khiến tôi ngạc nhiên, thích thú, vì cô vừa là đồng hương Nha Trang vừa là, trong tầm xa (long distance), đồng hương Xóm Bóng.
Sau này, gia đình cô dời qua thành phố Nha Trang sinh sống, và học tại Thánh Tâm đến lớp 10, rồi trường Hưng Đạo của Linh Mục Benoît Phương, dưới chân Nhà Thờ Núi, cho đến khi đậu Tú Tài II. Tại Thánh Tâm, cô kể, cô học cùng lớp với Mộng Hằng, người Huế (cô dừng lại, đột ngột hỏi, “thầy có nhớ Mộng Hằng, đẹp và dễ thương, học Pháp Văn với thầy không”?), lúc ấy là người bạn thân nhất, bây giờ nghe nói đang ở Nam Cali. Ngoài Mộng Hằng, cô còn là bạn đồng lớp với Tôn Nữ Thu Dung, mà bây giờ, tôi biết, là nhà văn được nhiều người ái mộ. Tuyết Lan còn nhắc thêm tên vài thầy cô. Tôi nghĩ bụng, TL là dân Thánh Tâm thứ thiệt.
Tại thành phố Nha Trang, lúc đầu gia đình ở một địa chỉ khác, hàng xóm rất tử tế. Nhưng từ lúc Như Quỳnh tham gia hoạt động chính trị và bị bắt lần đầu, năm 2009, thì mỗi sáng trước cửa nhà thấy có một đống phân heo, phân người do ai ném vào, rất hôi thối, mất công dọn rửa. Lối xóm có người bắt đầu nói xỏ xiên, bàn tán, bóng gió. Chưa kể, có một chiến dịch bịa đặt và bêu xấu về đời tư của Như Quỳnh. Sau, chịu không nổi, phải đổi về địa chỉ hiện tại, ở Xóm Mới.

Như Quỳnh bị bắt đi bắt lại nhiều lần, điều mà ai cũng biết, và đăng trên báo chí, từ 2009 đến 2016. Đến ngày 10/10/2016 thì bị bắt hẳn và giam tại Cam Ranh, và bị Tòa Sơ thẩm Nha Trang kết án 10 năm tù giam, và ngày 29/6/2017, bị xử lại, và Tòa chung thẩm y án. Trong phiên tòa này, Tuyết Lan không được phép vào tham dự, vì Công An lấy cớ là phòng xử không đủ chỗ. Sau phiên xử, Tuyết Lan kể, cô đưa cho một Đại tá Công An một quyển Thánh Kinh nhờ trao giùm lại cho Như Quỳnh. Đúng là giao trứng cho ác. Vì, quả nhiên, ra Thanh Hóa thăm con lần đầu, khi nghe con kể không nhận được sách, Tuyết Lan tức giận đi tìm gặp tên Đại tá cai tù tại văn phòng, nhưng y cố tình lẩn tránh. Lần thăm nuôi sau, bất ngờ gặp y tại văn phòng trại, cô hỏi: “Tại sao ông không đưa quyển Thánh Kinh cho con gái tôi?”, thì y quắc mắt, hỏi ngược: “Tại sao tôi có nhiệm vụ phải trả lời câu hỏi của chị?” TL kể tiếp: “Bấy giờ, em nổi khùng lên, không biết sợ là gì nữa. Em đấu lý với y, đại khái em nói, một người đàn ông lịch sự và biết tự trọng, nhất là một đại tá Công an, phải phục vụ và làm gương tốt cho nhân dân, nghĩa là phải biết giữ đúng lời hứa, lại là lời hứa đối với gia đình một nữ tù nhân mà số phận bị ông nắm giữ trong tay. Ông đã lẩn tránh tôi, bây giờ ông bảo ông không có bổn phận trả lời cho tôi. Như vậy nghĩa là làm sao?” Nghe đến đây, tôi khoái quá, bật cười, hỏi đùa: “Em cãi hay lắm, làm sao thằng đại tá đó chịu nổi? Có phải em gốc Quảng Nam?” Tuyết Lan không hiểu ý tôi, thành thật trả lời: “Không, em gốc Bắc di cư, năm 1954, cha mẹ vô Nha Trang, từ lúc em chưa sanh! Em sanh ra tại Nha Trang!”

3. Sau đó, Tuyết Lan kể về cuộc sống khổ cực của Như Quỳnh trong nhà tù Thanh Hóa, đúng y như trong những bài viết mà tôi đã đọc trước đây. Bị một con nặc nô đồng tù chửi rủa, vô cớ, bằng những câu quá tục tĩu, mà “tụi em cả đời chưa bao giờ nghe”. Như Quỳnh yêu cầu đổi phòng, lúc đầu cai tù không cho, sau cho một phòng trống trải, nhà cầu, nhà tắm không cửa, không phên che, ai cũng thấy. Một bữa, Quỳnh nhai một món ăn có mùi vị lạ, và sau đó thấy khó chịu, nôn ra hết. Nghi ngờ có âm mưu đầu độc, và để phản đối điều kiện sống quá tồi tệ và khắc nghiệt đối với một (nữ) tù nhân, Quỳnh quyết định tuyệt thực.
Dưới đây là nguyên văn cuộc đối thoại giữa Tuyết Lan và tôi về chuyện tuyệt thực của Mẹ Nấm:

NKQ: Tôi nhận thấy tuyệt thực là phương cách đấu tranh bất bạo động của những người yếu thế để phản đối ai đó và điều gì đó. Trước kia, phương cách này, cũng như tự thiêu, rất hữu hiệu, mang lại kết quả tốt, nhất là ở các nước văn minh, tôn trọng mạng sống con người. Bây giờ, ở các nước độc tài, đảng trị, nhất là VN, người ta không quan tâm, hay không quan tâm nhiều, đến nữa, sống chết mặc bây. Ngay tại Liên Hiệp Quốc, Ủy Ban Bảo Vệ Nhân Quyền gồm toàn những nước vi phạm nhân quyền nhiều nhất, như Tàu Cộng, Venezuela, Nga, Syria…, khiến Tổng Thống Trump của Mỹ phải rút ra khỏi Ủy Ban ấy, để phản đối. Vì vậy, tôi đã suy nghĩ kỹ, và đã tham khảo ý kiến của vài bạn thân chống Cộng cùng mình, và đề nghị với em, lần sau, nếu thăm gặp Quỳnh, em nên khuyên cháu ngưng tuyệt thực. Không có lợi cho cuộc tranh đấu, mà có thể thiệt hại đến thân.

TL: Em biết. Và đã nhiều lần nói với nó ngưng tuyệt thực. Thấy nó ốm yếu, xanh xao quá, bước đi không vững, em xót xa lắm, đã phải khuyên nó như vậy rồi. Nó cương quyết không chịu. Em phải nói với nó, con còn hai đứa con thơ dại, bây giờ mẹ còn nuôi và lo cho các cháu được, nay mai mẹ già yếu, hoặc nằm xuống, mà rủi con chết, lấy ai nuôi và chăm sóc chúng nó? Con phải sống. Nó trả lời: "Mạng sống của con đâu đáng kể, nhưng những gì con làm cho đất nước mới quan trọng, có ý nghĩa."

NKQ: Đúng là như vậy. Nhưng dựa trên kinh nghiệm bản thân của tôi, chín năm ở tù VC bị đói triền miên, em nên cố gắng thuyết phục cháu rằng muốn tranh đấu dài lâu thì phải có sức. Và ăn uống là một điều kiện cần thiết để nuôi thể xác cho có sức mạnh và cái đầu cho tỉnh táo. Đói quá, đầu óc không thể hoạt động được, chỉ vật vờ, buông xuôi, không còn làm gì được nữa… Nếu sợ bị đầu độc, thì khuyên Quỳnh ăn thức ăn của gia đình tiếp tế.

TL: Dạ, cám ơn thầy. Ngày 2 tháng 8, là tới ngày thăm nuôi, em đã mua vé máy bay rồi. Đồ thăm nuôi chỉ được 5 ký thôi, kể cả sách vở và sách kinh, vì Quỳnh ngoan đạo, luôn cầu xin Chúa, và Chúa luôn thương yêu và giúp đỡ nó một cách đặc biệt. Em sẽ cố gắng thuyết phục Quỳnh ngưng tuyệt thực, nhưng em biết tánh nó cứng đầu lắm…

NKQ: Không phải cứng đầu, mà là cương quyết. Cám ơn em.

4. Nói chuyện với Tuyết Lan xong thì đã quá khuya, tại Portland, và đã qua sáng ngày 20/7 bên VN rồi, tôi mở tin tức, và biết được công dân Mỹ Will Nguyễn thoát khỏi án tù, nhưng bị Tòa án Rừng Rú VC trục xuất ra khỏi nước ngay.

Theo báo quốc doanh Thanh Niên, ngày 20/7, 11:25, do các thân hữu phe ta chuyển, tôi đọc được như sau:
“Trong lời nói sau cùng, Việt kiều Mỹ Nguyen William Anh mong HĐXX khoan hồng để bị cáo về Mỹ tiếp tục con đường học tập. Nguyen William Anh bị trục xuất vì hành vi gây rối trật tự công cộng. […]
Tại phiên tòa, William thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Bị cáo khai đã mua vé may bay từ đầu tháng 6.2018 để về Việt Nam du lịch. Trong thời gian chuẩn bị về, bị cáo có lên mạng tìm hiểu thông tin về Việt Nam thì thấy có thông tin về việc biểu tình nên tham gia. William khai trước tòa là chưa tìm hiểu sâu về 2 dự luật trên nhưng muốn tìm hiểu về con người, văn hóa Việt Nam nên hòa vào dòng người cùng biểu tình”.
Báo Thanh Niên là Fake News VN thổ tả đối với chúng ta, tin chúng nó là bán hết thóc giống. Tôi bèn đi tìm tin tức trên Truyền Thông An Nam Phe Ta và Tin Tức (tương đối) Trung Thực Mỹ, như Fox News, về chuyện Will Nguyễn xin tòa án VC khoan hồng. Nhưng tất cả chỉ loan tin vắn tắt: Mỹ hài lòng, vì Will “được” trục xuất, mà không thấy đăng, hay nói, tin về việc Will xin lỗi. Hỏi gia đình ở Sài Gòn, thì không ai được, và không ai có nhu cầu, vào tham dự, và họ cũng chỉ theo dõi tin tức trên tivi và báo chí. Nhưng họ thêm: “Vụ những người tổ chức biểu tình đang đêm bị Công An Côn Đồ bắt cóc vào đồn là có thật, bị tra tấn, đánh đập là có thật, bị đưa lên tivi xin lỗi nhà nước và cả nhân dân là có thật. Thì không có gì lạ trong vụ Mỹ kiều Will Nguyễn, nếu chuyện anh ta xin lỗi trước tòa là chuyện có thật…” Nghĩa là anh ta đã bị tra tấn, đánh đập, hù dọa, trước khi ra tòa, như những nạn nhân vô tội, đáng thương khác, trên đất nước VN.

5. Tuy nhiên, nghĩ về Như Quỳnh, và Tuyết Lan, và những nữ lưu can trường khác, con cháu lẫy lừng của bao anh hùng tiền nhân trong lịch sử chống ngoại xâm phương Bắc, tôi thấy lòng buồn kỳ lạ. Một nỗi buồn không tên, mênh mông, cứ ám ảnh giấc ngủ không đến, khác với thường đêm. Lại miên man nghĩ đến cuộc đời, đến định mệnh, đến sự phi lý khôn cùng của kiếp sống, đến nỗi bất hạnh của con người, đến những bài triết học ngày xưa. Đến Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, liễu yếu đào tơ, đang bị đọa đày trong nanh vuốt của một loài thú rừng dã man, cực kỳ man rợ, duy nhất còn sót trên quả địa cầu chúng ta, mang tên là Việt Cộng. Đến tất cả những tù nhân chính trị ở quê nhà. Đến Jean-Paul Sartre và quan niệm hiện sinh (existentialisme) nổi tiếng cho mãi đến hôm nay, còn được áp dụng cho trường hợp nữ anh hùng Mẹ Nấm. Quả vậy, cũng như Như Quỳnh, mọi người chúng ta sinh ra đều có một bản thể (essence), như cỏ cây, như viên đá cuội vô tri vô giác. Hơn nhau là ở sự lựa chọn. Chỉ có sự lựa chọn khó khăn và hành động (chứ không phải intention, ý định suông. Sartre viết: “Hỏa ngục lát đầy những thiện ý”, cf. Huis-Clos), mới có thể biến bản thể thành hiện hữu (existence), hay hiện sinh. Và như vậy, mới có thể tìm được sự tự do đích thực, ngay trong lúc bị giam hãm trong ngục tù.
Tự do tuyệt đối và cao quý mà Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, với sự lựa chọn dũng cảm và hành động tuyệt vời, nhất quyết không chịu hạ mình cầu khẩn, xin ban cho điều gì, đang tìm thấy trong trại giam Thanh Hóa của loài quỷ dữ Cộng Phỉ phi nhân và đê hèn.

Portland, thứ bảy 21/7/2018
Người Lính Già Oregon



Đi tìm một người và thời gian đã mất

người lính già oregon

1. Từ một năm nay, tôi cứ thắc mắc hoài, và đi tìm trong trí tưởng, về một người, đúng hơn, hình bóng của một người, mà tôi nhớ hình như là một cô học trò cũ, tại Nha Trang –nay bỗng trở thành nạn nhân, tuy không trực tiếp, nhưng nổi tiếng, thảm thương, của bọn lãnh đạo Cộng Phỉ độc tài, bán nước. Tôi nói “hình như” là bởi không chắc lắm. Nhưng những cái tên ít phổ thông, nghe lạ tai, như của cô, hoặc những cô khác, ví dụ, Túc Dung, Thu Mơ, Mộng Hằng, Hải Sâm, An Phong, Lệ Mẫn, Liễu Dương, Từ Tân, cả đến Nguyễn Thị Công, Trần Thị Quang, Lại Thị Tư, bình dị, không màu mè v.v… làm tôi nhớ rất dai, dù đã trên 48 năm rồi, và thỉnh thoảng còn nhắc giùm cho các giáo sư đồng nghiệp nào hỏi đến.
Quả vậy, cuối năm 1970, từ Bình Định, tôi được đổi về Đại Đội 204 CTCT Nha Trang, đồn trú tại Bình Tân, gần Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Đại úy Phạm Văn Tải (hiện đang sống tại Portland) giao cho tôi Trung đội Chính Huấn kèm theo trung bình bốn cô ca sĩ, tức nữ huấn đạo. Cuối tuần, Trung đội đi công tác một lần, thường ban đêm, luân phiên tại các đơn vị và quân trường trong vùng, hay xa hơn, Ninh Hòa, Dục Mỹ. Công việc mới, như thế, khá nhàn hạ, sau bao năm bị tăng phái cho Sư đoàn 22 và 23, lội theo các đơn vị hành quân vào những thôn làng đầy nhóc du kích giả dạng thường dân. Ở Nha Trang, rảnh quá, tôi đâm ra “ngứa nghề”, thèm đi dạy lại, kẻo bỏ lâu “lụt nghề”, ngoài ra để kiếm thêm tí tiền còm. Vì là nhà binh, tôi không thể dạy các trường công lập sở tại, ví dụ Võ Tánh, hay Nữ Trung Học. Bèn mò đến trường Nữ Tư Thục Thánh Tâm, vì nghe nói bà hiệu trưởng cũng tốt nghiệp Văn Khoa Pháp Sài Gòn, niên khóa 1960-63, như tôi. Đến cầu may, chứ chẳng hy vọng gì. Tuy nhiên, vừa thấy tôi lò dò bước vô văn phòng, bà hiệu trưởng, tức Sơ Marie-Jeanne Phạm Thị Nhâm, nhận ra ngay cái anh chàng bạn học cùng lớp, cùng môn, cùng năm, dễ thương, nhưng hay cúp cua đi chơi, đi họp Thanh Sinh Công, hoặc đi công tác xã hội, và thường hỏi bà mượn bài vở bị thiếu. Sau một hồi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm cũ, tôi được bà cho dạy liền một khi, không cần điều tra khả năng, bằng cấp, hay lý lịch.
Để an toàn xa lộ và đúng thủ tục, Đại úy Tải đề nghị tôi làm đơn lên Bộ Tổng Tham Mưu, xin đi dạy thêm “ngoài giờ làm việc” –điều kiện ắt có và đủ, mà tôi luôn vi phạm, trên thực tế. Đơn được Trung tướng Tham Mưu Trưởng Nguyễn Văn Mạnh ký “thuận”, sau ba tuần lễ. Sơ Marie-Jeanne chỉ định tôi dạy ba lớp từ Đệ tam đến Đệ nhất. Còn các lớp dưới, thì chính bà và Sơ Paulina phụ trách. Có năm, vì hai Sơ quá bận, tôi phải kiêm luôn lớp Đệ tứ. Chuyện tôi được vô dạy trường Nữ Thánh Tâm đơn giản như vậy đó.

2. Năm ngoái, tình cờ tôi được đọc một bài, rất cảm động và đanh thép, của một nhà văn lớn, vốn là đồng hương Nha Trang, Phạm Tín An Ninh (PTAN), đăng trên trang Dân Làm Báo, tháng 7, 2017, có tựa đề, “Thành Phố Nha Trang – Thiên thần và Ác quỷ”, sau khi Mẹ Nấm, tức Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, bị Tòa Việt Cộng rừng rú tuyên án mười năm tù giam vì đã dám đứng lên tranh đấu đòi hỏi tự do, nhân quyền cho đất nước. Nhà văn PTAN cũng cho biết mẹ của Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là một cựu nữ sinh trường Thánh Tâm, có tên Nguyễn Thị Tuyết Lan.
Từ đó, tôi cố đi tìm Tuyết Lan, qua những dòng thư và trang giấy trên Mạng ảo. Như đi tìm thời gian đã mất, theo bước Marcel Proust. Rất khó khăn. Bởi thế giới của tôi hôm nay, khác xa khung trời huyễn mộng, ngạt ngào hương phấn trong À la recherche du temps perdu, ít nhất là trước lúc thời gian chưa được tìm thấy lại –có hương thanh bình tỏa ngát và hy vọng vươn xanh, có tiếng chim ca vang và gió đùa trong nắng, với những Albertine, những Gilberte, những Odette, và những nàng thiếu nữ yêu kiều dưới hoa đang tuổi trăng tròn, lòng đầy ắp mộng mơ và tình yêu thanh khiết… Trái lại, ở đây, Nha Trang, cũng như toàn cõi Việt Nam, gần nửa thế kỷ sau chiến tranh, khi tiếng súng đã im, nước mắt đã khô, khổ đau đã dứt, nhưng, vô phúc thay, phải sống trong nanh vuốt của loài “ác quỷ” mang hình người, có tên Việt Cộng, đang là một địa ngục trần gian, đích thực. Nha Trang, “miền quê hương cát trắng” ngày nào của tôi đã chết. Hoa bướm không còn. Rặng thùy dương dọc theo bãi cát mênh mông đã bị đốn sạch, để làm khu nhà nghỉ mát riêng biệt cho những thằng du khách Tàu, Nga, lúc nhúc như lũ chuột đói, hôi hám, kênh kiệu, mất dạy. Chim chóc thiên di về các hoang đảo xa. Khách sạn và tiệm ăn lớn nhỏ thi nhau mọc lên, ngăn chận gió biển thổi vào đất liền. Thành phố một thời thơ mộng đó của tôi, của nhạc sĩ Minh Kỳ, của nhà văn PTAN, và của biết bao đồng hương thân yêu còn bị kẹt lại, hay đang sống đời lưu vong, bây giờ chỉ thấy đầy dẫy những thằng Công an súc vật ác ôn, hung bạo, mập ú, chìm nổi, một sớm một chiều từ lỗ cống nào chui lên, rình rập, đánh đập, tra tấn, và thủ tiêu người dân bất lực, vô tội bị chúng bỏ tù. Như tại bất cứ thành phố nào khác. Cả nước Việt Nam là một địa ngục, ghê rợn còn hơn Inferno của thi hào Dante.

3. Trở lại chuyện của Tuyết Lan. Bởi vì nghe lạ tai, cái tên đó gợi nhắc trong tôi hình ảnh chập chờn, mơ hồ sương khói của một nữ sinh cũ, hoặc ở trường Collège Français, mà tôi đã dạy trước khi bị gọi nhập ngũ, hoặc ở trường Thánh Tâm, mà tôi là giáo sư, như đã kể trên, sau khi được đổi về Đại Đội 204 CTCT. Sau khi đọc bài báo của PTAN, tôi mới biết chắc Tuyết Lan học Thánh Tâm, nhưng không rõ có học Pháp văn với tôi không. Tôi bèn nhắn hỏi cô em gái, hiện còn ở Nha Trang, mà tôi quên cũng là một cựu nữ sinh Thánh Tâm, vì tại Mỹ, không thấy có một Hội Ái Hữu Thánh Tâm, hay một học trò cũ nào để liên lạc. Hỏi một vài cựu giáo sư đồng nghiệp thì không ai nhớ. Và em đã trả lời:
[…] Chuyện cô Tuyết Lan em sẽ nhờ người hỏi giùm vì em không quen cô ta, em có thể tới nhà cô ấy nhưng sợ có công an chìm theo dõi vì nghe nói nhà cô ấy có người canh. Anh ráng đợi vài ngày nha.
[…] Em có nhắn tin cho Tuyết Lan trên facebook để hỏi về việc Anh nhờ nhưng cô ta không trả lời, có lẽ vì sợ , em không dám đến nhà, nhưng em có hỏi bạn cùng lớp với em hồi học TT thì hồi đó TL học sau tụi em một lớp và bạn em nói là không rõ TL có học Pháp Văn với Anh hay không. Em sẽ cố gắng hỏi giùm Anh.
Chưa có thêm tin tức chính xác, và có thể Tuyết Lan không còn nhớ tôi, hay không dám nhận, hay tôi lộn cô với người khác, nhưng hình ảnh của một thời xưa cũ, êm đềm, bình yên, trước ngày nước mất nhà tan, trở về trọn vẹn trong trí tôi –bềnh bồng trên dòng sông dĩ vãng nhạt nhòa. Có những lúc tôi thấy rất rõ trước mắt một Tuyết Lan, ngày đó, còn trẻ, xinh đẹp và hiền thục, nếu không muốn nói nhút nhát, chăm chỉ và ít nói. Như những nữ sinh khác của tôi tại Collège và Thánh Tâm.

4. Tại sao tôi phải tìm kiếm Tuyết Lan, cô học trò cũ, mà nay dưới mắt bọn lãnh đạo tự phong và công an Cộng Phỉ trở thành một thứ hàng quốc cấm? Thấy sang bắt quàng làm họ ư? Không, Tuyết Lan mỗi tháng phải vất vả ra Thanh Hóa, vượt hàng ngàn cây số, để thăm nuôi con gái, Như Quỳnh, bị giam cầm giữa tuổi thanh xuân, phải chăm sóc một bà mẹ già và đứa hai cháu ngoại côi cút, tư gia thì bị bọn ác ôn canh giữ ngày đêm, không dám tiếp xúc với ai, thì sang nỗi gì, vào đâu, và với ai? Trái lại, tôi tìm cô, bởi ba lý do:

a) Tôi muốn bày tỏ lòng xúc động và ngưỡng mộ vô bờ, như một thầy giáo đối với mẹ, Tuyết Lan, và như một người cha, người ông đối với con, Như Quỳnh –cả hai là phụ nữ tay yếu chân mềm, nhưng vĩ đại, lẫy lừng, đã làm kẻ thù sợ hãi và những đồng hương Nha Trang, trong và ngoài nước, hãnh diện, vì lòng hy sinh cao cả và sự đấu tranh dũng cảm, mỗi người một cách, của hai mẹ con cho sự tồn vong của tổ quốc. Câu Như Quỳnh nói với mẹ, sau khi bị xử và kêu án: “Con xin lỗi mẹ và hai con vì những gì con làm đã làm khiến tình mẫu tử mẹ con bị chia cắt lâu dài, nhưng con không ân hận về những gì mình đã làm. Và nếu như phải lựa chọn lại, con sẽ vẫn làm như vậy”, đã khiến bao người ứa lệ, và đi vào lịch sử như câu nói bất hủ, để đời.
Cũng như, xin mở ngoặc, câu tuyên bố vô cùng khẳng khái của một nữ tù nhân khác, Lê Thị Công Nhân, vào tháng 3, 2007, sau khi bị kết án bốn năm tù ở và ba năm quản chế: “Tôi xin khẳng định bằng tất cả lương tâm, trách nhiệm của mình và tình cảm đối với đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam là tôi sẽ chiến đấu tới cùng, cho dù chỉ còn có một mình tôi, để đấu tranh trước hết giành lấy nhân quyền cho chính mình và giành lấy nhân quyền, tự do và dân chủ cho người dân Việt Nam... Và Cộng sản đừng có mong chờ bất kỳ một điều gì là thỏa hiệp, chứ đừng nói là đầu hàng từ phía tôi.”
Ôi, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Thị Tuyết Lan, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, và còn ai nữa, những nữ lưu hậu duệ xứng đáng và tuyệt vời của Hai Bà Trưng và Bà Triệu! Tôi, một tù nhân tám năm cải tạo và một năm vượt biên bị bắt, đã biết thế nào là gian khổ, tuyệt vọng và uất nghẹn trong ngục tù Việt Cộng, xin được một lần cúi đầu cảm phục, ngưỡng mộ các cô, những thế hệ tiếp nối, kiêu hùng, trước những việc mà các cô đã và đang làm, thay cho chúng tôi, những “chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt” ngày đó, mà nay bỗng thấy tuổi đời chồng chất, sức cùng lực kiệt. Cám ơn các cô.

b) Tôi muốn lên tiếng tố cáo trước công luận thế giới, đúng hơn, lương tâm thế giới, về cách đối xử bất công và vô nhân đạo của bạo quyền Việt Cộng đối với chính công dân của mình. Như Quỳnh chỉ có một tội, là yêu nước và kêu gọi chống ngoại bang Tàu Cộng mà phải bị án giam mười năm, bị đồng tù cố tình chửi rủa, để hành hạ tinh thần, và độc ác hơn nữa, bị xa lìa hai đứa con còn thơ dại. Những giải thưởng này nọ cho Mẹ Nấm không làm bọn Cộng Phỉ ngu muội và đê tiện chùn bước, trái lại còn làm chúng tức thêm. Chưa kể, nhất cử nhất động, chúng phải tuân theo lệnh của quan thầy Tàu Cộng. Vì thế, chúng ta yêu cầu thế giới, bằng mọi cách, gây áp lực trên Tàu Cộng, để bọn này bắt đứa tôi tớ Việt Cộng phải thả Mẹ Nấm và các tù nhân lương tâm khác, tức khắc và vô điều kiện.

c) Tôi muốn xin đồng hương Nha Trang, và đặc biệt những cựu giáo sư và cựu học sinh trường Thánh Tâm trên toàn thế giới hãy yểm trợ gia đình Tuyết Lan và Như Quỳnh, đang trong cơn hoạn nạn, bi đát, chẳng những về tinh thần, đã đành, mà còn về vật chất nữa, ít nhiều tùy theo khả năng và phương cách riêng, hoàn toàn cá nhân và trực tiếp, qua những đường dây an toàn. Chúng ta đang ở quốc ngoại, sợ gì bọn Việt Cộng trong nước, mà đắn đo, chần chờ?
Cầu chúc em Tuyết Lan và cháu Như Quỳnh luôn chân cứng đá mềm, dũng cảm, chịu đựng những bất công, khổ hạnh, gây nên cho em và cháu bởi Việt Cộng, loài thú hung ác nhất, còn sót lại trên hành tinh này, thay cho cả dân tộc đang bị đọa đày, bị bán đứng cho lũ Tàu Cộng. Xin Thượng Đế Toàn Năng phù hộ và che chở hai mẹ con, phá hết xích xiềng, bắt chúng trả tự do cho cháu Như Quỳnh, giải phóng toàn dân.
Sau hết, xin Thượng Đế đoái thương, bảo vệ nước Việt Nam, không bị rơi vào tay giặc Tàu Cộng tham tàn.

Portland, 14/7/2018
Người Lính Già Oregon



Lãnh đạo bỉ ổi & bán nước của đảng CSVN

bị dân vạch mặt

người lính già oregon

“[…] Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào ! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng ?”
(Trích “Hịch tướng sĩ” của Hưng Đạo Vương, thế kỷ XIII, trước sự xâm lăng tổ quốc VN của giặc Nguyên Mông).

1. Tin tức từ quốc nội, về nguy cơ mất nước vào tay của giặc Tàu khốn kiếp, kẻ thù muôn đời của dân tộc, với sự đồng lõa bỉ ổi của lũ lãnh đạo Đảng Cộng Sản VN đốn mạt, những Lê Chiêu Thống và Trần Ích Tắc thời đại, dồn dập gửi đến Cộng Đồng Hải Ngoại, khiến mọi người trong chúng ta không khỏi lo lắng, xót xa, và uất giận. Sau một loạt sự kiện xảy ra, như những màn mở đầu cho một kế hoạch bán nước và cướp nước dài lâu được bọn chúng chuẩn bị và phối hợp tuần tự, nhịp nhàng, từ nhiều năm qua, thì việc thành lập những cái được gọi là “đặc khu kinh tế” (SEZ) cho giặc mướn trong 99 năm là giọt nước làm tràn ly: biên giới bị xóa, giặc tràn vào như nước lũ, cột mốc mỗi lúc bị dời sâu vào lãnh thổ của ta, đâu đâu cũng thấy hàng hàng lớp lớp những thằng lính Tàu Cộng mất dạy, ngang ngược, ồn ào, được ngụy trang dưới vỏ bọc du khách, chuyên viên, chẳng hạn tại Móng Cái, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, các tỉnh Miền Tây, chưa kể các vụ Bauxite Đắc Nông (2001), Bauxite Tây Nguyên (2008), rước giặc vào chiếm các vùng cao nguyên, giàn khoan HD-981, Vũng Áng Hà Tĩnh, Đông Đô Bình Dương, Formosa Thanh Hóa v.v... Không còn nghi ngờ nữa về việc đất nước thân yêu của ta có bị mất hay không vào tay Tàu Cộng. Vấn đề chỉ là thời gian thôi.
Tuy nhiên, trước sự kiện rành rành VC đem dâng cho Tàu Cộng, dưới chiêu bài lừa bịp “cho thuê 99 năm”, ba đặc khu kinh tế Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Tiền Giang), là những tử huyệt của VN, về mặt giao thương và nhất là quân sự, và an ninh quốc gia, vẫn có những anh trí thức già nua, lên mặt thầy đời, ví dụ tại Âu Châu, và Hoa Kỳ, mang khía cạnh pháp lý và lịch sử, từ Đông sang Tây, ra mổ xẻ, và cho VC có lý, hoặc cà kê dê ngỗng về lý thuyết kinh tế cũ rích, để rồi kết luận, no star where, không sao đâu, trái lại còn có lợi cho dân ta. Chao ôi, tôi không thể không ví những anh dở hơi cám lợn này với cái đám thầy bói mù sờ voi, trật lất, không nghe, không thấy gì hết, trước tai họa thực sự đang giáng xuống trên quê hương. Mặc dù trên toàn quốc đã và đang sôi sục ngọn lửa đấu tranh cao độ: dân chúng tại Hà Nội, Sài Gòn, và các tỉnh, như Phan Thiết, Phan Rí, đồng loạt tràn xuống đường biểu tình, bất kể bị ngăn chận, bắt bớ, đánh đập, giam cầm bởi lũ lãnh đạo và công an VC, loài thú man rợ mang hình người… Người dân trong nước đã hành động do trực giác nhậy bén và bản năng sinh tồn thúc đẩy, không cần lý luận cao xa, vùng lên từ cái thế bị dồn vào chân tường, không còn sự chọn lựa. Không còn biết sợ hãi nữa. Những anh trí thức nói trên còn thua cả tư cách và hành động tuyệt vọng và can đảm, trong một nghĩa nào, của một nữ lưu bình thường, trong tay không một tấc sắt, mới đây, đã cởi truồng phản đối Việt Cộng và Tàu Cộng, y như những phụ nữ dân oan khiếu kiện bị cướp đất nhiều năm trước đây.

2. Quả vậy, hơn ai hết, người dân quốc nội hiểu rõ âm mưu thâm độc của lũ Tàu Cộng xâm lược và thấy rõ thái độ khiếp nhược bán nước, “ác với dân, hèn với giặc”, của những thằng lãnh đạo Việt Cộng ngu dốt, tham tàn và tham tiền (nghe nói chúng nhận từ Tàu Cộng, và chia nhau, hàng chục tỷ đô la, trong vụ bán đất này). Chưa kể luật “An Ninh Mạng” độc tài, quái đản mà Quốc Hội bù nhìn vừa biểu quyết thông qua, nhằm bưng bít mọi tin tức từ thế giới, nhưng đây là vấn đề khác. Mặc cho bọn Việt Cộng và Tàu Cộng sử dụng những ngôn từ xảo quyệt, điếm đàng, để trấn an, như “nhượng địa”, “tô giới”, “đặc khu”, “khu tự trị”, “kinh tế tự do” bla-bla-bla, chỉ lừa phỉnh được một số kẻ ngây thơ, nhẹ dạ, nhưng ba hoa chích chòe, người dân quốc nội, hơn ai hết, với kiến thức trung bình, nhưng thực tế và chính xác, nếu đem lịch sử của Trung Hoa vào cuối đời nhà Thanh, tức vào giữa thế kỷ XIX, trong nanh vuốt của hai đế quốc thực dân Anh và Pháp, so sánh với lịch sử Việt Nam hiện đại dưới gông cùm của lãnh đạo Việt Cộng và Tàu Cộng, hơn 170 năm sau, cũng thấy được ít nhiều điểm tương đồng. Nói cách khác, Tàu Cộng, trong tư cách nạn nhân, đã học được bài học đau đớn của Nhà Thanh vs Anh-Pháp, và hôm nay, mỉa mai thay, đem áp dụng, như kẻ xâm lược, trên đất nước Việt Nam, qua sự đồng lõa tồi tệ của lũ lãnh đạo VC.
Vắn tắt như sau: Nhà Thanh đã hai lần giao chiến với Anh quốc trong cuộc chiến tranh được gọi “nha phiến” (opium war), và đã hai lần thua. Lần đầu, vì Tàu không cho nhập cảng nha phiến từ Ấn Độ. Cuộc chiến kéo dài từ 1839 đến 1842, và kết thúc bằng hiệp ước Nam Kinh (Treaty of Nanking): nhà Thanh giao khoán, vô thời hạn, bán đảo Hồng Kông, và năm hải cảng khác, trong đó có Shanghai và Canton, cho Anh. Sang năm sau, bằng một hiệp ước khác, Anh được hưởng qui chế “most favored nation” (quốc gia ưu đãi, y như Tàu Cộng ở VN bây giờ hoặc sau này). Pháp, đồng minh của Anh, cũng nhảy vào ăn cớ, và với hiệp ước riêng năm 1843 và 1844, được sở hữu một số nhượng địa. Lần thứ hai, 1856-1860, Anh muốn hợp pháp hóa (legalize) việc buôn bán nha phiến, và kết cuộc, Tàu thua, Anh và Pháp làm chủ trên dưới 80 hải cảng lớn nhỏ: Trung Hoa phài mở cửa cho tất cả các tàu buôn Anh, không bắt đóng thuế nhập cảng hàng hóa, và tất cả thương gia ngoại quốc được tự do đi lại trong lãnh thổ Trung Hoa (cf. Kenneth Pletcher, Chinese history: Opium Wars, Encyclopedaedia Britannica Online, và David Thiên Ngọc, bài “‘Đặc khu’ hay ‘Nhượng địa’ - Âm mưu đánh tráo khái niệm”, đăng trên Internet). Đó chỉ là một trong hàng chục ví dụ cổ điển, rất thuyết phục, về sự chiếm đất một cách tinh vi của những thế lực ngoại bang trong lịch sử, và của Tàu Cộng hiện nay đối với Việt Nam.
Thấy chưa, hỡi quân bán nước VC đần độn, và những phân tích gia cóc nhái, bá láp? Nhà Thanh, tuy vậy, đã chiến đấu cho đến khi thất trận và chịu điều kiện áp đặt bởi kẻ chiến thắng. Vẫn đáng phục hơn lũ VC –đã và đang cúi rạp người, như nô lệ, trước quan thầy Tàu Cộng dơ dáy, hôi hám, cung cúc làm theo những điều mà chúng nó đề nghị, sai bảo, bất kể sự tồn vong của đất nước và nhân dân, và sự nguyền rủa muôn đời của lịch sử và bao thế hệ mai sau của dòng giống Việt.

3. Kết thúc bài này, tôi xin mọi người dân của đất nước Việt Nam anh hùng, một đất nước đã bao lần đánh thắng vẻ vang giặc xâm lược từ phương Bắc, trong nhiều thế kỷ, hãy cùng tôi đọc lại một đoạn trong “Hịch Tướng sĩ” (được trích ghi ở đầu bài mọn này) của Hưng Đạo Vương, một trong những vị anh hùng cứu nước và giữ nước lẫy lừng nhất của lịch sử Việt Nam, nếu không muốn nói của thế giới, để nhớ lại sự quyết tâm chiến đấu của tổ tiên ta trước mọi kẻ thù. Toàn dân, trong cũng như ngoài nước, đã thức tỉnh, và đang sẵn sàng, mỗi người theo cách riêng, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện.
Và chúng tôi, ở quốc ngoại, không thể làm gì khác ngoài việc yểm trợ tinh thần, trong khả năng. Đặc biệt, lần này, kêu gọi lòng yêu nước thương nòi của những tướng lãnh quốc nội còn trong sạch, liêm khiết, đang cầm quân, hãy đứng về phía nhân dân, để giữ nước, bằng cách vùng lên lật đổ, và tiêu diệt, lũ lãnh đạo VC bán nước cầu vinh và đánh đuổi bọn cướp nước Tàu Cộng tham tàn, nham hiểm. Mong lắm thay.
Sau hết, xin Thượng Đế đoái thương nước Việt Nam khốn khổ đang rên siết trong vòng vây hãm của thù trong giặc ngoài.

Portland, 14/6/2018
Người Lính Già Oregon

 

Đăng ngày 26 tháng 07.2018