Từ Nhân Văn Giai Phẩm đến Văn Đoàn Độc Lập

nam dao

Nam Dao

Hội Nhà Văn Việt Nam TP Hồ Chí Minh - chắc được chỉ đạo từ những cấp cao hơn như Ban Tuyên Giáo của Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN), rồi Hội Nhà Văn Việt Nam ( HNVVN) - mới đây gạch tên 9 hội viên không cho bầu làm đại biểu tham dự Đại Hội Nhà Văn lần IX sẽ nhóm họp ở Hà Nội vào tháng 7 năm nay. Những hội viên bị gạch tên[i] đều là thành viên của Ban vận động thành lập Văn Đoàn Độc Lập (BVĐVĐĐL). Tập hợp này bị thế quyền gán cho là ‘’ ám muội’’, là ‘’diễn biến’’, tự tung tự tác tìm cách thoát trói buộc những định chế chính trị xưa nay vốn là rào cản tự do sáng tác và tự do ngôn luận. Khi được chỉ đạo chỉ nhằm phục vụ chính trị, văn học là thứ văn học minh họa kiểu người tốt việc tốt, lu loa tuyên truyền tô hồng, đẩy người viết vào cách thế nhìn nghiêng với một mắt, thậm chí nhắm tịt cả hai mắt, mô tả cho ‘’phải đạo’’ một thứ hiện thực xã hội tô vẽ, hoang tưởng, đậm mùi duy ý chí. Loại văn học văn chương có lãnh đạo chính trị này khiến một nhà thơ trẻ vào đầu những năm 80 đau xót kêu:
Tụi nó cưỡi lên lưng anh làm ngựa
khiến mông anh trổ đuôi, còn gáy mọc ra bờm
anh vừa hí vừa vặn mình nôn mửa
một đống lạ lùng nửa áo nửa cơm.
Tụi nó lại treo trước đầu anh một giỏ hoa thơm
có mùi văn chương có hương nghệ thuật
anh nghiến răng nhai một cách cuống cuồng
đến khi ợ mới biết mồm tàn tật...

Nền văn chương minh họa và phải đạo bén rễ sau thời Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) kéo dài hơn hai mươi năm bỗng hóa thân vào thời đầu Đổi Mới năm 87- 89 với những tác phẩm vượt trội. Xin tri ân tướng Trần Độ. Xin cám ơn nhà văn Nguyên Ngọc. Cả hai vị này đã phà duỡng khí hồi sinh vào thây ma của thứ văn chương vô hồn rập khuôn chính sách văn hóa Liên-Xô đã tạo ra những Quần Đảo Ngục Tù ( goulag) rồi còn lại kẹp thêm tính Mao-nhiều & Mao-ít hậu phong kiến đội tên giả là xã hội chủ nghĩa. Thình lình, chúng ta có hàng loạt tác phẩm đúng nghĩa với những Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Dương thu Hương, Nguyễn Quang Lập, Nhật Tuấn...Người đọc nay đua nhau mua báo Văn Nghệ vốn xưa ế ẩm, tìm đọc Tướng Về Hưu, Nỗi Buồn Chiến Tranh, Thiên Sứ, Bên Kia Bờ Ảo Vọng, Những Mảnh Đời Đen Trắng, Đi Về Nơi Hoang Dã.... Văn chương thời Đổi Mới không còn hiện thực thô thiển, ngây ngô. Những nhà văn thời này phá rào đi vào tìm hiểu những qui luật nằm dưới tầng hiện tượng, với con người như cứu cánh của văn chương và nghệ thuật. Nhưng ác thay, thời sáng tạo văn học Đổi Mới quá ngắn. Hai, ba năm sau, kinh hoảng trước cuộc thế đổi thay ở Đông Âu và sau là Liên Xô, thế quyền Việt Nam liền chuyển từ Đổi Mới qua thế Nới Cũ, quay đầu thần phục Trung Hoa vĩ đại ở Thành Đô từ ¼ thế kỷ cho đến nay. Chính trị thống soái, và văn chương buộc lại khom lưng, boi tro trát chấu. Số tác phẩm có giá trị từ đó chỉ đếm trên đầu ngón tay, với những Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Võ Thị Hảo, Hoàng Minh Tường...Hiện tượng thế quyền chăn nuôi gần 1000 hội viên HNVVN, hơn 800 tờ báo, 300 trang mạng, hàng trăm dư luận viên, biến văn chương nghệ thuật thành truồng trại sản xuất thịt ôi, nông trại trồng cây không trái, tất cả èo uột và ủ dột một mầu vàng những hoàng hôn sắp tắt. Buồn cười hơn là dưới áp lực kim tiền trọc phú, quan chức ‘’văn hóa’’ HNVVN tung hô những ‘’tác phẩm’’ như thơ làm trên đỉnh Yên Tử của Hoàng Trọng Thuật, lăm le đi ‘’nộp đơn’’ xin ứng thí giải Nobel!

Thời Nới Cũ cũng là thời tham nhũng cửa quyền vượt ngưỡng tưởng tượng, phân hóa giàu nghèo tăng gấp bội, đạo lý xã hội xuống cấp trầm trọng, biển mất đất mất, kinh tế bị những anh em đồng chí phương Bắc lũng đoạn. Nhưng đau đớn thay, những kẻ tự cho mình là lớp đặc tuyển thì dửng dưng vô cảm. Trong số đó, không ít là những người cầm bút cam tâm nô bộc, đánh đĩ tâm hồn, bán miệng nuôi trôn. Trước tình hình đó, Ban vận động thành lập Văn Đoàn Độc Lập (VĐĐL) - một tổ chức dân sự hoàn toàn độc lập với mọi hệ thống tổ chức và thiết chế trong và ngoài nước - ra đời vào tháng 3 năm 2014 [ii], với mục đích góp phần xây dựng một nền văn học đích thực, tự do, nhân bản, hiện đại...trong sự nghiệp phục hưng văn hóa, phục hưng dân tộc mà lịch sử đang đòi hỏi. Và thật bất ngờ, HNVVN gạch tên 9 hội viên không cho bầu làm đại biểu tham dự Đại Hội Nhà Văn IX. Sự kiện tùy tiện vô nguyên tắc này đã thành mồi lửa khiến 20 hội viên, đa phần là những người đã thành danh, đồng loạt từ bỏ HNVVN, trong đó có Nguyên Ngọc, một nhà văn niên trưởng đầy uy tín [iii]. Và là lẽ tất nhiên, những thành viên của Ban vận động VĐĐL (BVĐ) tự hỏi họ đang và sẽ đối mặt với những thách thức gì, ngoài chuyện thế quyền từng yêu cầu báo chí lề phải tẩy chay họ, lặng lẽ ‘’ bao vây’’ kinh tế, và đã ‘’dằn mặt’’ qua vụ việc bắt giam Bọ Lập dẫu nhà văn này đã rút tên khỏi BVĐ.
Nhà văn Võ Thị Hảo cảnh báo, hãy coi chừng một vụ NVGP mới. Từ NVGP đến VĐĐL, thật ra xu thế thời đại đã thay đổi, cục diện chính trị khác hẳn, và hiện trạng xã hội Việt Nam cũng đã có những chuyển biến quan trọng.

Thời NHÂN VĂN GIAI PHẨM
Phong trào NVGP, tạm cho là từ 1-1956 đến 2-1957 với sự ra đời của Giai Phẩm và sau là Nhân Văn [iv], đặt những đòi hỏi dân chủ đầu tiên cho văn nghệ sĩ trên miền Bắc sau Hiệp Định Geneve. Tố Hữu buộc tội hai nhà văn quân đội Trần Dần và Tử Phác: ...‘’ Họ đòi thực hiện những gì? "Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội Văn Nghệ trực thuộc Hội Văn Nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính trị". Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ".
Đòi hỏi trả quyền tự do sáng tác trong văn nghệ quân đội lây lan sang xã hội dân sự. Tiến trình của phong trào này xin được ghi dưới đây như cước chú[v]. Chỉ chưa đầy một năm sau khi Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, vào tháng 11 năm 56, cuộc chính biến ở Hungary bắt đầu. Cũng tháng 11, Quỳnh Lưu nổi dậy và ngay sau đó ông Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về báo chí, xác định lại những cấm kỵ trên bình diện thông tin, mở đầu cho những năm tháng khóa miệng toàn dân kéo dài nhiều thập niên.
Đầu 57, hồng quân Liên Xô tràn vào Hung trấn áp cuộc nổi dậy. Đế quốc Liên Xô hoàn toàn kiềm chế những quốc gia chư hầu Đông Âu, và thế giới tiếp tục phân chia thành hai khối sau hiệp định Yalta cuối thế chiến ÌI. An tâm, những nhà chính trị nắm thế quyền ở miền Bắc Việt Nam không cần tiếp tục ôn hòa với những mầm mống ‘’ tư tưởng tư sản tư bản’’. Từ 20 đến 28/2/57, Đại Hội Văn Nghệ II họp tại Hà Nội. Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát bọn NVGP". Cuối 1957, Mao Trạch Đông đánh phái hữu. Miền Bắc Việt Nam cử Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường sang học tập kinh nghiệm, chính sách của Trung Quốc. Khi họ trở về, đảng tổ chức hai lớp đấu tranh "chống bọn phản động NVGP" ở Thái Hà ấp. Đây là một cuộc đấu tố khá qui mô, nhà văn ném đá vào nhau, không khí trấn áp nặng mùi côn đồ ít thấy trong một tầng lớp được gọi là trí thức. Đại Hội Văn Nghệ III, họp tại Hà Nội tháng 6 năm 58, hoàn tất "Trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP" với bài tổng kết của Tố Hữu, nghị quyết của hàng trăm văn nghệ sĩ lên án "bọn NVGP", ra lệnh thi hành biện pháp kỷ luật.

Thất bại của NVGP đánh dấu mốc đầu tiên của nền văn hóa toàn trị in chỉ dấu ý thức Mác-Lênin, vận hành trong mô hình tổ chức Lêninít, được bổ xung bằng những định chế Maoít hầu thích nghi với những xã hội nông nghiệp phương Đông. Có nhiều lý do giải thích sự xẩy thai của cuộc đấu tranh cho dân chủ và tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do sáng tạo gầy lên bởi những trí thức kiệt xuất như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thào, Trương Tửu...và những nhà văn tên tuổi như Phan Khôi, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Cung...:

1- Thời NVGP, ý thức hệ Mác-Lênin vẫn còn hấp dẫn, vẽ ra một xã hội CS như xu thể lịch sử tất yếu thay thế xã hội dân chủ tư bản tư sản Âu Tây. Từ cơ sở đó, những dân tộc Á-Phi nằm dưới ách thực dân nuôi hy vọng giải phóng ( Cuba, Algeria... chẳng hạn), mặc dù có những chính biến như cuộc nổi dậy ở Ba Lan, ở Hungary.

2- Thời NVGP, thế quyền ở miền Bắc rập khuôn Maoít, làm nhiểu sai lầm, từ Chỉnh đốn tổ chức, Chỉnh quân Chỉnh huấn, đánh Tư Sản, và nhất là Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ). Nhưng sau hiệp định Geneve,Việt Nam bị cắt đôi, ước vọng độc lập và thống nhất đất nước là linh thiêng trong truyền thống dân tộc. Với chiến thắng Điện Biên lẫy lừng, người Việt tìm lại được tự hào, quần chúng mủi lỏng trước những giọt nước mắt của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và bài diển văn về 7 sai lầm trong CCRĐ của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, lại góp công góp sức xây dựng xã hội mới đang thời chập chững. Chập chững, nhưng khắc nghiệt. Sắc lệnh về Báo Chí do ông Hồ Chí Minh ký bịt miệng toàn dân, và Đảng độc quyền in ấn khiến từ đó chỉ có gió một chiều thổi từ những Ủy ban nào là Tư Tưởng, nào là Tuyên Huấn, Tuyên Giáo... từ thời đó cho đến ngày nay.

Thời VĂN ĐOÀN ĐỘC LẬP
Sau thời NVGP, miền Bắc lao vào đại cuộc mang tên Chống Mỹ Cứu Nước, tâm lực dồn hết vào chiến tranh, những vấn nạn dân sự thời bình bị quên lãng trong một thời gian dài cho đến nằm 1975. Rồi 40 năm vụt qua, đến nay là thời VĐĐL. So với thời NVGP, có nhiều yếu tố khác biệt khá quan trọng. Xin kể:

1- Về mặt ý thức, phải chờ đến thập niên 60-70 mới xuất hiện những Zinoviev, Sakharov, Solzhenitsyn... ở Liên Xô, nêu lên nhiều mặt trái của xã hội XHCN. Trí thức Tây Âu vỡ mộng, rụt rẻ đề nghị một xã hội CS với khuôn mặt nhân bản. Tổ chức xã hội kiểu Lêninít phi nhân tạo ra một tầng lớp quyền lực mới (nomenklatura), ý thức hệ Mác-Lê thành một ảo ảnh tan như băng dưới ánh mặt trời. Ngày nay, hệ thống của cái gọi là XHCN hoàn toàn phá sản, và nếu còn thì chỉ có Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba là những quốc gia mang cái tên gọi nhưng thực chất thì chẳng còn gì để tung hô Mác-Lê. Vô sản thế giới, nay hết thời, chẳng còn ai kêu gọi hãy đoàn kết lại!

2- Từ 1976, đất nước thống nhất nhưng lòng người thì không. Thế quyền rải trên 3 miền đất nước những trại Học Tập Cải Tạo nhốt hàng trăm ngàn người, ra chính sách ‘’ bán chính thức’’ thu vàng đuổi người, đẩy con em ra khơi vượt biển. Số thuyền nhân chết chìm đếm ra đến vài trăm ngàn, và những người tha hương lên đến ba, bốn triệu. Đất không lành, chim bay được thì bay, đậu lại chỉ mang cái kiếp ‘’cột đèn’’ không đi được. Thế quyền độc trị đánh mất chính danh, nay thấp thỏm mong thời gian xóa mờ tội trạng.

3- Mặt khác, từ 40 năm nay, hứa hẹn xây dựng một xã hội vững mạnh với một nền kinh tế hiện đại và lành mạnh nay là những lời hứa suông. Dư luận nay đều rõ: kinh tế Việt Nam đang trên đà tiêu vong, chuyên bán nguyên vật liệu và gia công giá rẻ, bị Trung Quốc lũng đoạn gần như toàn bộ, ngân sách thâm thủng, nhập siêu, nợ nần còn hơn Chúa Chổm. Người Việt nay sưu cao thuế nặng, công ăn việc làm bấp bênh, đa số vất vưởng với một nền Giáo Dục và Y Tế không đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu. Tệ nạn xã hội, đặc biệt đạo lý xuống cấp, là hệ quả của một nền độc trị thiểu năng, chỉ biết phục tùng người anh em phương Bắc, và thẳng tay áp bức con dân mình.

4- Không thể không nói đến sự kiện Trung Quốc xâm lăng Việt Nam trên biển và ở những vùng đất biên giới. Thế quyền phản ứng e dè, nhượng bộ, và tránh né khiến những vấn đề chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ nổi cộm. Đã có những ví von những kẻ đương quyền với những Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc. Lá cờ độc lập và giải phóng dân tộc đang có cơ vuột tay họ. Hơn nữa, rập khuôn mô hình xã hội Trung Quốc với những con mèo trắng cũng như đen, lá cờ XHCN cũng thành những lá phướn vô hồn trong một chuyến xe tang mang ra nghĩa địa chôn những nắm chữ không còn nghĩa. Không có gì...Phải, không có gì quí hơn Lợi Ích Nhóm, không có gì ngoài phồn vinh giả tạo xây lên từ những công trình rút ruột đến 40% để làm giầu cho những đại gia xuất thân con ông cháu cha, không có gì ngoài chuyện cướp đất, phá rừng mang cho Trung Quốc thuê những vùng địa lý có tính chiến lược quốc phòng. Không có gì..., không có gì khác hơn là xử dụng côn đồ của xã hội đen đánh đập lương dân, bịt miệng những nhóm xã hội dân sự đòi công lý. Không có gì... Không có gì qui hơn Độc Lập Tự Do. Nhưng nay không Độc Lập, cũng chẳng Tự Do thì những kẻ kế thừa ông Hồ Chí Minh làm sao giữ được chính danh.

5- Cuối cùng. khác với thời NVGP, ngày nay thông tin mạng trở thành phổ cập. Rất khó chận bắt tin tức như những người thợ săn. Đối phó, thế quyền có hàng trăm tờ báo in, hàng trăm trang mạng lề phải và vô số dư luận viên, đúng kiểu biện chứng biến lượng thành phẩm, cả vú lấp miệng, gõ thùng rỗng mong thấu đến trời cao.
Thời VĐĐL như vậy hẳn khác xa với thời NVGP. Xu thế của thời đại nay là con đường tiến tới dân chủ, tự do và tôn trọng nhân quyền trên toàn thế giới. Việt Nam thì cứ tách riêng như một ốc đảo lạc loài. Quan trọng, là thế quyền ở đó hầu như mất gần trọn gói tính chính danh. Phía trái của cái cạp quần quyền lực là sự suy sụp xã hội và kinh tế Việt Nam. Bên phải, kiếp nạn mất biển mất đảo mất cả đất liển mà vẫn ngậm đắng nuốt cay ‘’ bốn tốt’’ và ‘’ 16 chữ vàng’’. Nói cách nói của nhà văn quá cố Trần Dần thời NVGP, hãy nắm lấy cạp quần mà vật xuống. Quần tuột, vua cởi truồng, và tồng ngồng lông lá thì ai cũng như ai, con người cả mà!
Việc gạch tên 9 nhà văn không cho bầu làm đại biểu tham dự Đại Hội 9 của HNVVN là một cú đánh lén dưới thắt lưng, chứng tỏ tính ấu trĩ của một cơ quan có tầm quan trọng được thế quyền chỉ đạo và điều hành. Thái độ xởi lởi của ông Hữu Thỉnh với nhà văn Trần Kỳ Trung[vi], một động thái chính trị rẻ tiền, chỉ hùng hồn nói lên được cái tính vô liêm hèn hạ. Vì sao? Vì họ đã mất chính danh rồi! Hiểu như thế, chắc hẳn chẳng mấy ai chui vào cái bẫy tự gạch tên mình ra khỏi BVĐVĐĐL

Nhưng VĐĐL phải làm gì ở thời điểm này?
Tuyên xưng mục đích góp tay xây dựng một nền văn học đích thực, dân chủ, tự do và nhân bản...cần, nhưng HNVVN cũng có thể phát ngôn cùng một tôn chỉ. Khác là VĐĐL đứng ngoài mọi hệ thống tổ chức và thiết chế trong cũng như ngoài nước, không hoạt động dưới sự chỉ đạo và vòng kim cô quản lý của ĐCSVN. Cái khác cơ bản này mới tạo hy vọng có thể xây dựng một nền văn chương thôi ‘’phải đạo’’, không ‘’minh họa’’ bôi hồng trát son như từ xưa.
Làm gì để xây dựng? Trang mạng Văn Việt của BVĐVĐĐL (http://vanviet.info/) đã thực hiện nhiều đề mục quan trọng trong phần Nghiên Cứu-Phê Bình. Mục Văn Học Miền Nam 54-75 trả lại công bằng và danh dự cho những nhà văn nhà thơ miền Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Mục Thảo Luận với những bài về Viện Khổng Tử và Việc Dạy-Học Ngữ Văn rất bổ ích. Về Văn và Thơ, đề nghị thêm một diễn đàn riêng cho những người viết trẻ, trẻ không ở nghĩa tuổi tác mà rộng hơn, trẻ ở cái mới trong khai phá và sáng tạo. Và để đốc thúc sáng tạo ở khâu này, tại sao Văn Việt không tổ chức những Bàn Tròn hội thảo trên những tác phẩm cũng như phương cách tiếp cận văn chương hiện đại ở trong cũng như ở ngoài nước. Tại sao VĐĐL không tạo ra những Giải Thưởng tương tự như Giải Phan Châu Trinh mà nay được xã hội đánh giá như một mốc đo phẩm tính của những người làm công việc văn hóa. Nhắm đến lớp Trẻ trong số những người viết - người đọc rất quan trọng. Cũng hệt như NVGP xưa kia, VĐĐL ngày nay giới hạn vào lớp trí thức ưu tú thành thị, đặc biệt là ở những thành phố lớn. Lớp này phần đông đứng tuổi, và hiển nhiên, lớp trẻ hơn hẳn tự thân có nhiều xung lực dấn thân cần thiết cho những bước đường dài.

Làm gi để VĐĐL có vị thế tách bạch với HNVVN? Vụ Nhã Thuyên về vấn đề tự do học thuật là một thí dụ điển hình cho thấy VĐĐL có quan điểm rõ rệt chứ không ngậm miệng ăn tiền. Trong trường hợp những nhà văn bị chính quyền sách nhiễu, bắt bớ...HNVVN thường không lên tiếng bảo vệ hội viên. VĐĐL đã có hành xử khác. thí dụ như lên tiếng bênh vực nhà văn Phạm Đình Trọng, nhà thơ Đỗ Trung Quân, và kêu gọi hỗ trợ Bọ Lập khi nhà văn này bị bắt giam. Việc VĐĐL cất tiếng nói mỗi khi tự do tư tưởng và tự do ngôn luận bị chà đạp là tất yếu .
Làm gì để VĐĐL không bị đánh đồng với một hội ái hữu con con của HNVVN? Gạch tên 9 nhà thơ, nhà văn là xúc phạm họ, và đồng thơì làm tổn thương đến uy tín của BVĐVĐĐL. Động thái thiếu trưởng thành này cần được xử lý rạch ròi về mặt luật pháp. VĐĐL nên tường trình sự vụ lên ông Đinh Thế Huynh, trường ban Tuyên Giáo TW, đòi ông Hữu Thỉnh giải trình một cách chính thức, và nếu không thỏa đáng thì khởi tố trên cơ sở pháp quyền dân sự.

Mặt khác, có thể thời điểm này là lúc VĐĐL nên chính thức ra đời với cương lĩnh và nội qui như từng thông báo (và hứa hẹn). Đó là một bước dậy lên phong trào cho một nền văn học đích thực, tự do và nhân bản với những nhà văn trong và ngoài nước thiết tha thực hiện tiêu chí cao đẹp này. Đã có 22 tổ chức dân sự độc lập ở Việt Nam, và đối lại, lực cản với cái cáo buộc ‘’ diễn biến’’ lúc nào mà chẳng có. Nhưng co mình trong thế thủ mãi thì khó mà đánh động được những nhà văn đồng tâm huyết, đồng tâm ý, nhưng còn nhiều ‘’tâm tư’’ đang mong chờ những sự kiện rõ ràng thôi thúc họ dấn thân. Mở lối lót đường tiến tới tương lai cần trí tuệ. Hiển nhiên, dũng khí là điều kiện đủ.
Nam Dao
19-05-2015

[i]http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/05/150505_hoi_nhavan_van_doan_doc_lap
[ii] http://vanviet.info/van-de-hom-nay/tuyen-bo-van-dong-thanh-lap-van-doan-doc-lap-viet-nam/
[iii] http://vanviet.info/van-de-hom-nay/tuyen-bo-tu-bo-hoi-nha-van-viet-nam/
[iv] Biên khảo NVGP và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc của nhà nghiên cứu Thụy Khuê là một tài liệu công phu (http://nhanvangiaipham.free.fr/) tôi xử dụng. Để có cái nhìn trực tiếp của một nhân chứng và nạn nhân, tôi dựa thêm trên tập Ghi 1954-1960 của Trần Dần, do nhà văn Phạm Thị Hoài biên tập và hiệu đính, xuất bản bởi td mémoire, Paris, 2001
[v] Tháng 1/1956, Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời do Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương, với những bài chính: Nhất định thắng của Trần Dần, Anh có nghe thấy không của Văn Cao...Tháng 2/56, Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu, Tố Hữu triệu tập Đại Hội Cán Bộ Tuyên Huấn toàn miền Bắc để phê phán Giai Phẩm Mùa Xuân, ra lệnh bắt Trần Dần, Tử Phác. Hội Văn Nghệ tổ chức Đại hội, gồm 150 văn nghệ sĩ, ở 51 Trần Hưng Đạo để đánh Trần Dần. Trên báo, chiến dịch này bắt đầu với bài của Hoài Thanh "Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần" trên Văn Nghệ số 110, ngày 7/3/56.
Sau khi Khrouchtchev tường trình tội ác của Staline tại đại hội XX của đảng Cộng sản Liên Xô, và Mao Trạch Đông phát động "Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng", Ba Lan nổi dậy. Gió có vẻ đổi chiều, Hội nghị X Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động phát động Sửa Sai Cải Cách Ruộng Đất. Trường Chinh từ chức Tổng Bí Thư. Hồ Chí Minh kiêm Tổng Bí Thư lẫn Chủ Tịch. Võ Nguyên Giáp đọc Bẩy sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất. Hội Văn Nghệ được lệnh tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày. Nguyễn Hữu Đang đọc tham luận tổng kết chỉ trích gắt gao đường lối lãnh đạo văn nghệ của Trung Ương Đảng. Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và bộ phận lãnh đạo văn nghệ phải "thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa". Hoài Thanh viết bài nhận lỗi đánh Trần Dần.
Tình hình quốc tế rối rắm của khối CS phà dưỡng khí cho cuộc đấu tranh cho tự do ngôn luận ở Việt Nam. Giai Phẩm Mùa Thu, tập I, ra đời vào cuối tháng 8 năm 56, với những bài chủ chốt: Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, Tỉnh giấc chiêm bao của Nguyễn Bính, Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy...Tháng sau, Nhân Văn số 1, với bài Phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ, bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm và tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo ở cổ...Rồi Nhân Văn số 2, với bài Phỏng vấn Đào Duy Anh về mở rộng tự do và dân chủ, bài Trả lời Nguyễn Chương và báo Nhân Dân của Nguyễn Hữu Đang (ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy), bài Phấn đấu cho trăm hoa đua nở của Trần Duy...
Giai Phẩm tái xuất hiện vào mùa Thu, với bài Bệnh sùng bái cá nhân của Trương Tửu, Ông bình vôi của Phan Khôi, Những người khổng lồ của Trần Duy, Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán, ... Giai Phẩm Mùa Xuân tái bản. rồi Nguyễn Bính xuất bản báo Trăm Hoa, lập trường bênh vực Nhân Văn. Nguyễn Mạnh Tường diễn thuyết "Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất xây dựng quan điểm lãnh đạo" tại Mặt Trận Tổ Quốc, Hà Nội.
Nhân Văn số 4, với bài Cần phải chính quy hơn nữa của Nguyễn Hữu Đang, Thành thật đấu tranh cho dân chủ của Trần Duy, Con ngựa già của chúa Trịnh của Phùng Cung, Những ngày báo hiệu mùa xuân của Văn Cao ...Tiếp đến báo Đất Mới cùa sinh viên, rồi báo Sáng Tạo của nhóm sân khấu, điện ảnh xuất hiện. Tháng 11 năm 56, Nhân Văn số 5, với bài Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? của Nguyễn Hữu Đang, Bài học Ba Lan và Hung-ga-ri của Lê Đạt (ký tên Người Quan Sát). Tháng 12/56, Giai Phẩm Mùa Đông, tập I, với bài Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích của Trương Tửu, Nội dung xã hội và hình thức tự do của Trần Đức Thảo ...
Tháng 11 năm 1956, Nhân Văn số 6 đang in, bị đình chỉ. Tự Do Diễn Đàn, tạp chí chuyên về lý luận, phê bình, sáng tác, do Minh Đức phát hành cuối tháng 12-1956, bị cấm. Tạp chi này đăng Qua sai lầm của Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo của Nguyễn Mạnh Tường; truyện ngắn Chú bé làm văn của Trần Dần, Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết đến cuộc đấu tranh văn nghệ? của Nguyễn Hữu Đang, Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích chính sách của Phan Ngọc...

[vi] http://vanviet.info/van-de-hom-nay/nhung-tieng-vo-tay-cam-dong/

http://amvc.fr/


30-4, hận thù hóa giải?

Nam Dao

Ngày 30-4, ngày nếu có một triệu người vui, cũng là ngày có một triệu người buồn. Câu nói trong quá khứ của ông Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ Tướng chủ trương chính sách Đổi Mới, được lập đi nhắc lại nhưng liệu có còn chính xác với tình thế hiện tại của đất nước ? Ngày nay, kinh tế tụt hậu, hàng xuất là lao động giá bèo, cái đinh vít cũng không làm được mà nhập hàng ngoại tuốt tuột, nợ chồng chất. Rồi tham nhũng lên đỉnh cao, đạo đức xã hội xuống cấp, bạo hành từ nơi công quyền đến lề đường xó chợ, dân oan mất nhà mất đất vẫn chỉ biết kêu thất thanh trên khắp ba miền, và nhất là hiểm họa mất biển mất đất vào tay những ‘’ đồng chí đàn anh ‘’ phương Bắc ngày một trầm trọng. Nên nếu có một triệu người vui, số người buồn chí ít cũng phải vài chục triệu. Thế nhưng guồng máy quyền bính đương thời đang chuẩn bị các loại lễ hội, xây dựng một lô tượng đài, chắc hẳn những từ ngữ như chiến thắng, giải phóng...sẽ lại phô trương đến bị bào mòn để lẩn vào vô thức một dân tộc mà sự phân hóa có khả năng trở thành phân liệt chia rẽ dài hạn. Trong trường hợp này, người Việt chúng ta không tập hợp được nội lực dân tộc lẽ ra phải có, đất nước tụt hậu dài dài, chủ quyền bị gậm nhấm rồi và chẳng thế nào tránh được thân phận nô thuộc ngoại bang.

Ngày 30-04-1975 là ngày kết thúc một cuộc chiến tranh, có người gọi là chiến tranh giải phóng, người cho là chiến tranh ủy nhiệm của hai khối Tư Bản và Cộng Sản đối đầu trong thời Chiến Tranh lạnh...Dù gì, khí giới là khí giới Nga, Tàu, Mỹ...và xác người, xác Việt Nam mà con số tử trận và thương vong lên đến cả chục triệu. Năm nay, năm 2015. Sau 40 năm hò reo chiến thắng và vinh quang, lẽ ra những người đang nắm quyền lực phải nghĩ, dẫu muộn, đến vấn đề hóa giải hận thù trong lòng người Việt Nam trong nước cũng như ở hải ngoại. Ngược dòng lịch sử nước ta, ngay sau khi chiến thắng quân Nguyên xâm lăng 800 năm trước, Vua Trần Thánh Tông, một minh quân kiệt xuất, đã đốt hết thư tịch làm bằng chứng tố cáo đám người theo giặc, tránh trả thù , không truy bức để yên lòng dân. Trong cuộc nội chiến Nam-Bắc ở Mỹ, điều kiện đầu hàng mà tướng Grant phía Bắc- quân (Union) viết cho tướng Lee phía Nam-quân (Confederate) ghi rõ chỉ tịch thu khí giới, cho phép binh lính Nam-quân về làm ăn sinh sống bình thường trong đời sống dân sự. Nhưng năm 75, chính quyền gọi là chính quyền Cách Mạng, tiếp tục dùng chữ ngụy-quân, ngụy-quyền để chỉ những người thua trận, và sau đưa ra chính sách học tập cải tạo mà mục đích là cầm tù hảnh hạ họ, ra oai để yên dân bằng sự sợ. Chính sợ hãi là yếu tố khiến hàng trăm ngàn thuyền nhân liều mạng phiêu lưu trên biển cả, đánh cược mạng sống của mình và gia đình, hậu quả là số bỏ mạng lên tới trên dưới 500 ngàn người. Đào sâu, đục rộng sự phân hóa nhưng leo lẻo chuyện hoà hợp hòa giải dân tộc chỉ là mảnh vải thưa, làm sao che mắt ai trong thời buổi thông tin bừng nở của thiên niên kỷ này.

Hóa giải hận thù, điều kiện cần
Trong hầu hết mọi tôn giáo - ở nước ta chủ yếu là Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo - hận thù là cái phải cởi, không nên buộc. Hoá giải hận thù là điều kiện cần khiến hòa giải mới có khả năng thành hiện thực. Hòa giải giữa nạn nhân và những kẻ tác nghiệp chỉ khả thi khi những bên đối tác cùng có tâm thế nhân ái bao dung, đồng thời tôn trọng sự thật, công lý, và cố gắng xua đi những bồng bột cảm tính. Nếu hai bên có tinh thần đối thoại, lắng nghe và tìm hiểu lý lẽ chứ không khăng khăng xác quyết chân lý của riêng mình, sự tháo gỡ hoặc giảm thiểu tính đối đầu ăn thua có khả năng hiện thực, và từ đó một lộ trình hòa giải mới có thể thành hình.

Sau ngày một phía gọi là ngày mất nước, phía bên kia gọi là ngày giải phóng, chính sách học tập cải tạo (HTCT) đã đưa vào cảnh tù tội khổ sai cả trăm nghìn người. Nạn nhân là người trong guồng máy chính quyền VNCH, các quân nhân, trí thức văn nghệ sĩ... bị tập trung và giam giữ trung bình từ 2,3 cho đến 12, 13 năm. Những nạn nhân đó có quyền đặt một số vấn đề, chẳng hạn HTCT do đâu nếu không đơn thuần là trả thù; thời hạn giam giữ dài ngắn là vì sao, có hợp lý hợp tình không; và những hậu quả liên quan đến bản thân (bệnh tật) và gia đình họ (chia ly, phân tán...) phải được bù đắp bồi hoàn thế nào, vv...Về phía tác nghiệp, lẽ tất nhiên họ phải nhận trách nhiệm và trả đáp những câu hỏi trên. Trách nhiệm cao nhất là trách nhiệm chính trị thuộc về những người làm ra chính sách, sau mới đến trách nhiệm những người điều hành ở các cấp trung, cao.

Kèm vào tác động khủng bố tâm lý của chính sách HTCT, chiến tranh với Campuchia và sau là chiến tranh biên giới với Trung Quốc, kẻ ‘’dạy’’ Việt Nam một bài học, sự hoảng sợ lan rộng trong nhiều tầng lớp nhân dân, nhất là ở thành thị ngày một ngột ngạt vì không còn được sinh hoạt tự do như trước đây. Đồng thời, phong trào đánh tư sản mại bản và hai lần đổi tiền khiến nhiều người mất hết cơ nghiệp. Dẫu biết đầy bất trắc hiểm nguy đến tính mạng, họ đánh liều vượt biển nhân dịp người gốc Hoa ‘’được’’ ra đi chính thức hoặc bán chính thức. Thảm kịch thuyền nhân, với những con thuyền đuôi tôm hai blốc đầy ắp người lênh đênh tìm đường sang Phi, Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương...chết chìm trong lòng Thái Bình Dương là một vết nhơ cho chính quyền đã không giữ nổi con dân trên xứ sở của mình mà lại còn xua đuổi và nhân cơ hội cướp trắng. Ban đầu, giá chính thức cho một đầu người là 16 cây vàng. Sau, vàng cạn, giá tuột xuống 12, rồi 8, 6 và cho đến giữa thập niên 80 thì chỉ còn 2 cây, số cây tỉ lệ nghịch với độ rủi ro phải chấp nhận. Theo những ước lượng của Liên Hiệp Quốc, số người chết trên biển khoàng 4 đến 5 trăm ngàn người. Đã thế, khi những người tị nạn - nay là người gốc Việt sinh sống ờ hải ngoại - dựng tượng tưởng niệm nạn nhân vượt biển trên những hòn đảo ở Mã Lai, Nam Dương... những kẻ nắm quyền ở Việt Nam làm áp lực lên chính quyền các nước ASEAN nói trên yêu cầu triệt hạ những bức tượng đó! Đồng thời, họ leo lẻo ‘’ Việt kiều là khúc ruột ngàn dặm’’, và mới đây vài năm ra "Nghị quyết 36" kêu gọi lòng yêu nước, hô hào góp tay xây dựng quê hương qua điều vốn đầu tư (và cả, dĩ nhiên, qua cả cách gửi tiền về giúp bà con, hiện lượng tiền gửi về nay trên dưới 10 tỷ USD mỗi năm).
Nạn nhân của chính sách "thu vàng đuổi người" nếu đã chôn thây dưới đáy biển thì vẫn còn những người thân trong gia đình họ. Như chứng nhân, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, họ có quyền hỏi đâu là công lý, tại sao có cái chính sách đó, và toàn thể nhân dân có lý do thắc mắc số vàng thu được đi đâu, vào tay ai, được xử dụng như thế nào cho đất nước. Công khai bạch hóa những vấn đề này là một bước không nhỏ góp phần vào triển vọng ổn định lòng người.

Biểu hiện tinh thần hóa giải hận thù nhân ngày 30-04 lần thứ 40
Nếu thực sự chính quyền đương nhiệm không chỉ đề cập đến bốn chữ Hòa Hợp Hòa Giải như một chiêu bài ‘’ đánh bùn sang ao’’, ồn ào rỗng tuếch, thì hy vọng họ sẽ gọi ngày 30-4 là Ngày Hóa Giải Hận Thù. Và trong tương lai họ sẽ cho dựng ở những địa phương từ Bắc chí Nam :
1- Tượng đài Thương Tiếc những người lính hy sinh trong chiến tranh, không phân biệt Bắc - Nam, Quốc- Cộng.
2- Tượng đài Ghi Ơn mẹ Việt Nam, không cần thêm chữ anh hùng, chữ được hiểu là mẹ những người hy sinh cho chế độ độc trị hiện hành.
3- Đàn Giải Oan cho những nạn nhân bỏ mạng trên biển cũng như đất liền ở mọi nơi.
Đề nghị thế, nhưng trước mặt chúng ta chẳng hy vọng gì vào chính quyền đương nhiệm. Theo thiển ý, 22 tổ chức Xã Hội Dân Sự Độc Lập hiện đang hoạt động trong nước có thể cổ vũ ý kiến nêu trên, thậm chí dựng tượng đài một cách tượng trưng, không cần ‘’hoành tráng’’, cái chính là trong lòng dân. Mặt khác, vào ngày 30-4, chúng ta có thể vận động người ra đường với áo kẻ chữ hai chữ Hóa Giải, hoặc Ghi ơn Mẹ Việt Nam, hoặc Thương Tiếc Các Anh, như thông điệp gửi đến toàn thể đồng bào.

Hội Đồng Hòa Giải Dân Tộc
Trên thế giới, sau những cuộc đổi đời trong những quốc gia từng có những bất công, bạo hành, và những vi phạm quyền con người...thì nhiều nước đã thành lập những Hội đồng hòa giải dân tộc (Commission for National Reconciliation, hoặc Commission for Truth and Reconciliation). Có thể kể Nam Phi khi Mandela lên nắm chính quyền, Pakistan dưới thời Musharraf, rồi Palestine, Liberia, Algeria... Ở Á châu, có Đông-Timothy sau khi ly khai với Nam Dương. Mỗi quốc gia, vấn đề một khác. Nơi thì chủ yếu khác biệt sắc tộc, nơi khác biệt tôn giáo... đã là nguồn gốc của hận thù và sự phân liệt cần được hóa giải.
Theo tinh thần chủ đạo là Hòa Giải dân tộc nên, như một hệ luận, phương thức tiến hành của Hội Đồng tóm gọn là:
1/ Tìm hiểu sự thật lịch sử, xác minh ai tác nghiệp (gọi là tác nhân), và dựa trên sự xâm phạm quyền con người, ai là nạn nhân, ai là chứng nhân. Hội Đồng có trách vụ tạo điều kiện cho họ đối thoại, giải trình, biện minh và đả thông mọi mâu thuẫn, vướng mắc...
2/ Yêu cầu nói trên phải thực hiện với tiêu chuẩn thông tin công khai, minh bạch của mọi tác nhân, nạn nhân, và chứng nhân trước công luận.
3/Hôị Đồng có ý kiến về vấn đề qui trách nhiệm cho những tác nhân. Cần phân biệt a- Trách nhiệm chính trị (là trách nhiệm hoạch định chính sách); b- Trách nhiệm điều hành chính sách cấp cao và trung; và c- Trách nhiệm dân sự.
4/Trong một số quốc gia, Hội Đồng có thẩm quyền điều tra những lũng đoạn kinh tế, thất thoát kinh tế, tham nhũng, hối lộ cửa quyền... và đề đạt lên cơ quan có thẩm quyền thuộc ngành Tư Pháp những mức độ xử lý, từ ân xá đến yêu cầu truy tố, và tùy trường hợp cụ thể, qua Toà án quốc gia hay Tòa án quốc tế.
Chỉ khi có một Hội Đồng Hòa Giải hoạch định ở cấp quốc gia vào một ngày sẽ tới thì chúng ta mới hội được điều kiện đủ để thực sự hoàn thành công cuộc hóa giải oán thù và từng bước đi đến mục tiêu hòa giải dân tộc. Con đường không ngắn, nhưng cũng không buộc là dài. Và trong bất cứ trường hợp dài ngắn thế nào đi chăng nữa, chúng ta rồi thì cũng sẽ đối mặt với nhiệm vụ này như một nhiệm vụ lịch sử. Hy vọng từ đó chúng ta sẽ không dẵm lên những lối mòn đầy tai ương, để thẳng tiến trên con đường đến tương lai mà không bị xảo ngôn của những lý thuyết huyễn hão sập bẫy như từ bao nhiêu năm nay.

Để tạm kết, xin chép lại có chút thay đổi 4 câu thơ của Cao Tần:
Nếu mai mốt có đổi đời phen nữa
Ta đi về ta cứu lấy quê hương
Ta sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương.
và thành tâm mong sao các vị ‘’lo trước cái lo của thiên hạ’’, các chuyên gia, trí thức trong những ngành như Triết, Sử, Luật...và tất cả những Tổ chức Dân Sự Độc Lập góp tay vào sửa soạn nhằm thực hiện những đề đạt trình bày trong bài viết này. Tài liệu tham khảo ghi dưới đây có thể tạm dùng trong những bước sơ khởi [i]. Tất cả, vì con em, và cho con em chúng ta. Có thế, ta mới ‘’ vui sau cái vui của thiên hạ ‘’ được.
Nam Dao
12-04-2015

[i] Tham khảo:
1-On Good Terms: Defining Reconciliation - eDoc
edoc.vifapol.de/opus/volltexte/2011/2521/pdf/br14e.pdf
by D Bloomfield - ‎2006
2- National Reconciliation, Transitional Justice and the ... - IILJ
iilj.org/courses/documents/MendezArticle.pdf
by JE Méndez
3- Vérité, Reconciliation, Ouvrage Collectif ( Barbara Cassin, Jacques Derrida, Paul Ricoeur...), Edition Seuil, Nov 2004, ISBN 2020028864.
4- Ammistier l’Apartheid: Travaux de la Commission Vérité et Reconciliation, Mgr Tutu, prix Nobel de la Paix, Edition Seui, Nov 2004, ISBN 202068604X.

"Ăn mày văn chưong"  http://amvc.fr/

 

Đăng ngày 31 tháng 05.2015