Phải chăng lòng yêu nước đã tới hồi mệt mỏi?

Trần Trung Đạo

Như một thói quen, buổi sáng 15 tháng 9, tôi vào mạng CNN, lướt qua một vòng tin nước Mỹ, tin thế giới và dừng lại ở các tin Đông Nam Á. Sáng hôm đó CNN loan tin Trung Cộng đang xây phi đạo thứ ba trong vùng đảo Trường Sa đang tranh chấp. Theo CNN, các hình ảnh do vệ tinh Mỹ chụp được vào ngày 8 tháng 9 cho thấy Trung Cộng đang xây một phi đạo mới dài 3 ngàn mét dọc theo Mischief Reef. Trước đó Trung Cộng đã xây dựng xong hai phi đạo trên Fiery Cross Reef và Subi Reef cũng có chiều dài tương tự.
Greg Poling, Giám Đốc Trung Tâm Quốc Tế Nghiên Cứu Chiến Lược đặt tại Washington DC cho biết nếu quả thật đúng là phi đạo, Trung Cộng sẽ có ba phi đạo để dùng cho bất cứ loại phi cơ chiến đấu nào của Không quân Trung Cộng.

Phi đạo dùng cho phi cơ chiến đấu Trung Cộng J-11
Trong 18 tháng qua, theo giới chức Mỹ, Trung Cộng đã chiếm thêm 2 ngàn mẫu thuộc khu vực quần đảo Trường Sa đang tranh chấp. Các nước tranh chấp như Việt Nam, Philippines cũng có phi đạo nhưng không phi đạo nào thích hợp cho chiến đấu cơ thuộc thế hệ thứ tư, tức những chiến đấu cơ sản xuất khoảng từ 1980 tới nay.

Trước đó, theo phân tích “China's J-11 fighter jet 'may find new role in South China Sea” đăng trên tờ South China Morning Posts phát hành 21 tháng 6, 2015, cũng nhấn mạnh những phi đạo dài này có thể được xây dựng với ý định để các J-11 có tầm bay xa 1500 kilomet sử dụng. Loại chiến đấu cơ này, được nâng cấp từ Sukhoi Su-27SK, sản xuất lần đầu 1998 không phải là chiến đấu cơ tốt nhất của Trung Cộng và dĩ nhiên không phải là đối thủ của những chiến đấu cơ thuộc các nhóm F-18, F-22, F-35 của Mỹ nhưng là một đe dọa trực tiếp đối với an ninh của các quốc gia đang tranh chấp chủ quyền Trường Sa.

Lãnh đạo CSVN im lặng
Lãnh đạo CSVN, lẽ ra, dù nói không ai nghe cũng phải nói, dù la không ai nghe cũng phải la, dù kiện chưa chắc đi tới đâu cũng phải kiện. Biển Việt Nam, đảo Việt Nam, không một nước nào có quyền xây dựng phi đạo quân sự trên vùng đảo chỉ cách Cam Ranh 470 kilomet và cách Sài Gòn chưa đến 600 kilomet đường chim bay. Nhưng ngoài một số báo chí Việt Nam dịch lại các bản tin quốc tế, cho đến nay lãnh đạo đảng đã chọn thái độ “im lặng là vàng”. Không một lời phản đối, không tuyên ngôn, tuyên cáo, không đưa vấn đề ra trước dư luận quốc tế.
Chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng mà các báo chí đảng đánh bóng như là “bước đột phá lịch sử” hay “một mốc lịch sử trong quan hệ Việt – Mỹ” v.v. thực tế chỉ là những khẩu hiệu tuyên truyền.

Như đã trình bày trong bài Lãnh đạo CSVN trong quan hệ Mỹ Trung, chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng rồi cũng như bao nhiêu chuyến đi trước của các lãnh đạo CS, sẽ không có gì thay đổi. Ngoài Biển Đông, máu của ngư dân Việt Nam đã đổ và sẽ tiếp tục đổ. Trong lòng biển, nguồn dầu khí Việt Nam ngày càng bị vét cạn. Trên đất liền, tài nguyên thiên nhiên bị Trung Cộng khai thác sẽ còn tiếp tục bị khai thác.

Chính sách của Trung Cộng tại Biển Đông cũng không vì áp lực cua Mỹ trong thời gian qua mà thay đổi. Chúng biết ngoài việc gia tăng sự hiện diện của hải quân hay vài chuyến bay thấp trong vùng, Mỹ không có chọn lựa nào khác. Những ai cho rằng Mỹ sẽ đem các chiến đấu cơ tối tân để can thiệp một khi Việt Nam bị không quân Trung Cộng tấn công chớp nhoáng có lẽ là những nhận định quá lạc quan. Mỹ can thiệp hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố an ninh và quyền lợi trực tiếp. Các mâu thuẫn Mỹ-Trung có đó nhưng còn quá sớm cho một cuộc xung đột quân sự giữa hai nước này có thể xảy ra trong vùng Biển Đông.

Chính sách đối ngoại của Trung Cộng là chính sách ngoại giao của những kẻ có đầu óc ti tiện. Chúng hành xử như cách loài chuột đồng tàn phá mùa màng qua việc gặm nhấm từng bụi lúa. Một mặt chúng lớn tiếng với quốc tế là luôn theo đuổi chính sách “hòa bình” và “ổn định” nhưng mặt khác lấn chiếm từng thước đất, từng bãi san hô, từng hòn đảo nhỏ trên biển Đông, đặt những giàn khoan trong thềm lục địa Việt Nam và hôm nay xây những phi đạo dài trên các vùng biển Trường Sa đang tranh chấp. Những hành động nhỏ nhen này không đủ va chạm quyền lợi nặng đến mức các cường quốc phải đặt vấn đề và các biến cố do chúng gây ra không đủ tác hại an ninh khu vực đến mức quốc tế phải quan tâm nhất là trong gia đoạn bất ổn kinh tế thế giới hiện nay.

Trong thời gian ngắn trước và sau chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng, một số nhà phân tích cho rằng Việt Nam là một góc trong tam giác cân về thế đứng trong tranh chấp Biển Đông. Nhận xét đó không đúng. Lich sử bang giao quốc tế cho thấy, muốn đứng thế chân vạc, một quốc gia trước hết phải có vị trí độc lập trong tương quan về chính trị, kinh tế và quân sự quốc tế. Để đương đầu với một kẻ thù mạnh hơn, một quốc gia nếu không có đủ lực, phải có đủ thế.

Bài học Lithuania và Ukraine khi đương đầu với Nga
Có ít nhất hai bài học về thế và lực hiện còn đang là vấn đề thời sự quốc tế nóng bỏng cần được lưu ý: Cách hành xử của Lithuania và của Ukraine đối với chính sách bành trướng của Nga.
Trường hợp Lithuania. Sau khi sáp nhập Crimea năm ngoái, Nga đang nhắm đến các quốc gia nhỏ khác vùng Baltic. Cuối tháng 6, 2015, Bộ Tư pháp Nga cho rằng việc ba quốc gia Baltic gồm Lithuania, Latvia và Estonia tuyên bố độc lập khỏi Liên Bang Sô Viết có thể là không hợp pháp và đe dọa sẽ điều tra về sự kiện này. Tổng thống Lithuania Dalia Grybauskaitė tức khắc tuyên bố: “Nền độc lập của chúng tôi đã đạt được bằng máu và hy sinh của nhân dân Lithuania. Không một ai có quyền đe dọa. Chỉ có chúng tôi, nhân dân Lithuania mới có quyền quyết sinh vận mệnh của chúng tôi”.
Sở dĩ TT Dalia Grybauskaitė tuyên bố một cách cương quyết và dứt khoát không có chuyện ngồi xuống bàn thảo luận phải trái với Nga vì bà biết Nga chỉ dọa nhưng sẽ không bao giờ làm gì được Lithuania. Quốc gia nhỏ bé này đã là một thành viên của Cộng đồng Châu Âu và hội viên của NATO hùng mạnh. TT Dalia Grybauskaitė không chỉ tuyên bố cứng rắn mà còn là nước hội viên NATO đầu tiên tình nguyện gởi vũ khí viện trợ Ukraine chống Nga và kêu gọi các quốc gia hội viên NATO khác làm theo.
Các thế hệ lãnh đạo Lithuania nhìn xa thấy rộng. Từ 1990, các lãnh đạo Cộng Hòa Lithuania vừa được hồi sinh đã thẳng thắn từ chối đề nghị của TT Nga Boris Yeltsin để tham gia vào Thịnh Vượng Chung của Các Quốc Gia Độc Lập (Commonwealth of Independent States) trong vòng ảnh hưởng của Nga. Các lãnh đạo Lithuania ngày đó, dĩ nhiên, cũng cảm thấy cay đắng nhìn lại giai đoạn lịch sử đầy đau thương tang tóc khi quốc gia nhỏ bé này bị Anh, Mỹ bỏ rơi sau Thế chiến Thứ hai, nhưng thay vì sống ray rức trong quá khứ, họ dứt khoát đứng về phía Tây phương vì tương lai con cháu họ.
Trường hợp Ukraine thì khác. Các lãnh đạo Ukraine thiếu khôn ngoan và tầm nhìn nên vào ngày 8 tháng 12, 1991 đã tự đeo cái vòng kim cô Nga lên đầu khi cùng với Nga và Cộng Hòa Belarus sáng lập nên tổ chức Thịnh Vượng Chung của Các Quốc Gia Độc Lập. Vết thương do vòng kim cô Nga gây ra đến nay vẫn chưa lành.
Nước Việt Nam Cộng Sản không so sánh với Lithuania về cả thế lẫn lực. Lãnh đạo CSVN là một đám mù lòa theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Thật vậy, giữa lúc số phận của đất nước như chỉ mành treo chuông lãnh đạo đảng thay vì tập trung ngân sách vào việc tăng cường quốc phòng lại lo đi xây những tượng đài tôn thờ lãnh tụ mà các quốc gia cựu CS đang khổ sở không biết làm sao đập đổ cho hết.
Giữa một đất nước còn quá lạc hậu về mọi mặt, nghèo đói, tụt hậu kỹ thuật so với các quốc gia tiên tiến hàng thế kỷ, lãnh đạo CSVN chỉ biết ăn, biết tham nhũng, biết sống xa hoa trên máu xương đồng bào. So sánh cảnh trang hoàng nội thất của cựu TBT CS gốc thợ rừng Nông Đức Mạnh và cảnh hàng ngàn học sinh khắp ba miền phải lội sông đi học mỗi ngày để thấy các lãnh đạo CSVN quả thật đui về thị giác và mù tận đáy lương tâm.
Nhưng chỉ nguyền rủa lãnh đạo CSVN không cứu được đất nước. Để cứu nước phải tập trung tháo gỡ cơ chế độc tài đảng trị CS ra khỏi đời sống chính trị đất nước từ đó xây dựng một Việt Nam tự do, dân chủ và phát triển toàn diện phù hợp với thời đại văn minh dân chủ.
Chỉ có một Việt Nam đoàn kết dưới ngọn cờ dân chủ mới thật sự tập trung được sức mạnh tổng hợp của dân tộc, trong và ngoài nước, để bảo vệ đất nước và làm nền tảng cho một quốc gia dân chủ thịnh vượng lâu dài. Không những thế, dân chủ phải đến sớm, không thể đợi đến khi chiến tranh Á Châu bùng nổ, máu đổ, thây phơi mới đến.
Một trong những lý do Cộng Hòa Lithuania sớm trở thành hội viên NATO dù với một quân đội hiện dịch chỉ vỏn vẹn 15 ngàn người bởi vì quốc gia này cam kết xây dựng một chế độ dân chủ toàn diện. Lithuania có dân chủ trước Nga và các quốc gia thuộc khối Liên Xô cũ nên tránh được vòng ảnh hưởng của Nga và các biến động gây bất ổn trong vùng. Ngày nào Việt Nam còn nằm dưới sự cai trị của đảng CS, ngày đó đừng hy vọng gì để trở thành một Lithuania ở Đông Nam Á.

Phải chăng lòng yêu nước đã tới hồi mệt mỏi?
Ba phi đạo quân sự của Trung Cộng, về lâu dài, có tác hại trầm trọng hơn nhiều so với việc Trung Cộng bắn thủng tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam nhưng không phải người dân nào cũng biết, cũng hiểu, cũng lo.
Lẽ ra, đây là cơ hội cho những tiếng nói có trách nhiệm của người Việt quan tâm đến tiền đồ đất nước gióng lên một cách công khai, thẳng thắn và rộng rãi trước hiểm họa bành trướng của Trung Cộng. Nhưng một điều đáng buồn, không những lãnh đạo CS im lặng mà những tiếng nói yêu nước cũng thưa thớt dần. Đừng nói chi các cuộc xuống đường phản đối Trung Cộng mà ngay cả những bài báo, bài bình luận trong các mạng “lề dân” thảo luận về vấn đề sinh tử này cũng rất ít. Phải chăng lòng yêu nước đã tới hồi mệt mỏi?

Có thể. Nhưng xin đừng bỏ cuộc. Vẫn biết, con đường tranh đấu cho một Việt Nam dân chủ và cường thịnh đã khá dài và có thể còn dài, nhưng phải kiên nhẫn và tiếp tục đấu tranh. Một trong nhiều đặc điểm của văn hóa Việt là tính kiên nhẫn. Một ngàn năm trong bóng tối nô lệ của các triều đại Tàu nhưng lòng yêu nước như ngọn đèn soi rọi tâm hồn, nuôi dưỡng niềm hy vọng phục hưng để hôm nay trên bản đồ thế giới còn một Việt Nam.

September 21, 2015
Trần Trung Đạo

http://www.trantrungdao.com
__________________

Lãnh đạo CSVN trong quan hệ Mỹ Trung

Trần Trung Đạo

Người dân Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, rất quan tâm đến vận nước nhưng đa số sống trong tâm trạng chờ đợi. Chờ đợi người yêu nước và nhiều khi cũng chờ đợi cả kẻ bán nước. Chờ đợi đồng minh và chờ đợi luôn kẻ thù. Mỗi tin tức chính trị là cơ hội để những người chờ đợi bàn thảo, suy diễn theo ước muốn và quan điểm chủ quan của mình. Chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng gây nhiều bàn thảo trước khi y đi, phân tích khi y đến, dự đoán những gì sẽ xảy ra sau khi y về.
Nhưng rồi, cũng như bao nhiêu chuyến đi trước của các lãnh đạo CS, sẽ không có gì thay đổi cả. Ngoài Biển Đông, máu của ngư dân Việt Nam đã đổ và sẽ tiếp tục đổ. Trong lòng biển, nguồn dầu khí Việt Nam ngày càng bị vét cạn. Trên đất liền, tài nguyên thiên nhiên bị Trung Cộng khai thác sẽ còn tiếp tục bị khai thác. Chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng không tạo ra nên một thay đổi cấp bách và tức khắc nào trong bang giao Việt Mỹ và Việt Trung bởi vì thay đổi mang tính cách mạng không phải là mục đích của y.

Mục đích chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng
Một số nhà phân tích cho rằng sự kiện Trung Cộng vào ngày 1 tháng 5, 2014 đã đưa giàn khoan HD-981 đến cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa chỉ 17 hải lý và cách đảo Lý Sơn, thuộc tỉnh Quảng Ngãi 120 hải lý trong khi cách đảo Hải Nam đến 180 hải lý, là điểm vượt giới hạn (tipping point) mà CSVN có thể chấp nhận. Hành động bành trướng một cách lộ liễu của Trung Cộng ít nhiều đã làm cho khuynh hướng chống Tàu gia tăng trong nội bộ lãnh đạo CSVN. Trung Cộng khôn ngoan tạm thời dời giàn khoan để làm dịu tình hình.
Giả thiết Trung Cộng nhận ra và dừng lại tại điểm vượt giới hạn, rồi những gì xảy ra trước sự kiện HD-981, hàng trăm vi phạm trắng trợn luật quốc tế, nghiêm cấm đánh cá, húc đụng tàu bè và tàn sát ngư dân Việt Nam của CSTQ chẳng lẽ là trong giới hạn và được lãnh đạo CSVN chấp nhận hay sao?
Hôm 18 tháng 7 vừa qua, Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hà Nội “Về nước cũng nhận được nhiều đánh giá, gọi điện hỏi, chúc mừng, cho đây là thành công rất lớn, gọi đây là cuộc gặp gỡ lịch sử, xem ông cộng sản Việt Nam đi ra nước ngoài thế nào mà đến Phòng Bầu dục ở Nhà Trắng, đối thoại với Tổng thống Mỹ, là việc chưa từng có trong lịch sử, mà lại là hai ông cựu thù”.
Mục đích hàng đầu của Nguyễn Phú Trọng đúng là “đến Phòng Bầu dục Nhà Trắng, đối thoại với Tổng thống Mỹ”. Rất đơn giản, không có gì phức tạp như nhiều người bàn tán. Nguyễn Phú Trọng muốn chứng tỏ cho thế giới và nhất là nhân dân Việt Nam thấy Mỹ đã thừa nhận tính chính danh của đảng CS. Lần đầu tiên một Tổng Bí Thư đảng CSVN đặt chân vô Tòa Bạch Ốc. Không lạ gì trước ngày đi, mấy trăm tờ báo và các hệ thống truyền hình, truyền thanh của đảng đều nhấn mạnh đến chuyện “thảm đỏ” theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
Tập Cận Bình, tháng Tư năm nay, đã dành cho Nguyễn Phú Trọng một buổi tiếp đón trịnh trọng ngoài sức tưởng tượng của y mặc dù trước đó đã từ chối tiếp y. Hình thức tiếp đón dù màu sắc bao nhiêu cũng không gây tiếng vang quốc tế nào vì cả hai đều là lãnh đạo của hai đảng CS. Như người viết đã trình bày trong bài trước, cách Mỹ tiếp đón Nguyễn Phú Trọng cho thấy Mỹ chỉ thừa nhận yếu tố CSVN trong xung đột Biển Đông chứ không phải thừa nhận tính chính danh lãnh đạo Việt Nam của đảng CS.
Đối với các đảng CS cầm quyền, tính chính danh vô cùng quan trọng. Tấm bình phong “giải phóng dân tộc” đã giúp cho các đảng CS ở châu Á tồn tại đến nay trong khi hầu hết các đảng CS châu Âu đều sụp đổ.
Sau biến cố Thiên An Môn, Đặng Tiểu Bình nhận ra rằng chỉ đề cao “tư tưởng Mác Lê” chẳng những không đủ mà còn là một đe dọa đối với chế độ. Để ngăn chặn các tư tưởng tự do dân chủ đang lan rộng trong giới trí thức trẻ, y chỉ thị phải chuyển hướng tuyên truyền từ chủ nghĩa Mác Lê sang chủ nghĩa dân tộc. Ngay cả đảng CSTQ cũng phải thay hình đổi dạng từ một đảng vô sản chuyên chính sang loại hình CS dân tộc. Các lãnh đạo CSVN đã và đang áp dụng gần như rập khuôn phương pháp tuyên truyền của CSTQ qua việc đưa vai trò của chính phủ nổi bật hơn vai trò của đảng và lừa gạt được khá nhiều người.
Trước ngày đi Mỹ, Nguyễn Phú Trọng đã vội vã sang Bắc Kinh triều kiến Tập Cận Bình và trấn an y. Bản tuyên bố chung giữa Nguyễn Phú Trọng và Tập Cận Bình ký ngày 8 tháng Tư năm nay mang nội dung đầu hàng, thần phục. Người đọc có cảm tưởng văn bản này ký năm 1955 khi CSVN thở nhờ bình dưỡng khí Trung Cộng chứ không phải 2015.
Đọc toàn văn bản tuyên bố giữa Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng, một người có chút ít kiến thức và nhận thức chính trị căn bản không khỏi ngỡ ngàng. Ngày nay, nhân loại đã bước đi một đoạn đường trên thiên niên kỷ thứ ba văn minh dân chủ mà Nguyễn Phú Trọng còn buông ra được những câu sặc mùi Diên An, Pác Bó như “tình hữu nghị truyền thống Việt – Trung do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các nhà lãnh đạo tiền bối hai nước đích thân vun đắp là tài sản quý báu của hai Đảng”. Y cũng không quên những lời nịnh bợ Trung Cộng một cách lạc lõng khi nhắc lại thời kỳ Mao còn mỗi đêm nã vài ngàn viên đại pháo sang các đảo Kim Môn và Mã Tổ như “ủng hộ quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ Đài Loan độc lập dưới mọi hình thức”.
Chuyến đi Mỹ và nội dụng những lời phát biểu Nguyễn Phú Trọng tại Mỹ nếu không phải toàn văn thì cũng đại ý đã được trình bày với Tập Cận Bình. Do đó, mặc dù rất nhạy cảm trước các biến cố ngoại giao gây bất lợi cho Trung Cộng, lãnh đạo Trung Cộng không bày tỏ một thái độ bất bình chính thức nào trước chuyến viếng thăm Mỹ của Nguyễn Phú Trọng.

Biết thế nhưng tại sao Obama vẫn tiếp Nguyễn Phú Trọng?
Tại sao không? Các lãnh đạo Mỹ tiếp bất cứ chính trị gia, lãnh đạo đảng, nhà nước nào phục vụ cho chính sách đối ngoại, trong trường hợp này là bao vây Trung Cộng, của Mỹ. Augusto Pinochet của Chile, Manuel Noriega của Panama, Emílio G. Médici của Ba Tây, Mobutu Sese Seko của Congo, Hosni Mubarak của Ai Cập, Samuel Doe của Liberia và một danh sách dài của các lãnh đạo độc tài đã từng được các tổng thống Mỹ bắt tay hay chào đón tại Phòng Bầu Dục, tòa Bạch Ốc.
Chưa đầy hai năm trước ngày Muammar Gaddafi và con trai của y Mutassim Gadahfi bị giết, tháng Tư 2009, bà Hillary Clinton đã tiếp Mutassim Gadahfi tại Washington DC và ca ngợi việc tái lập quan hệ ngoại giao với kẻ đã từng bị TT Ronald Reagan gọi là “chó điên” nhưng cũng chính Hillary Clinton đã đùa giỡn với các phụ tá “Chúng ta Đến, Chúng ta Thấy, Hắn Chết !” (“We Came, We Saw, He Died!”) khi được báo tin Muammar Gaddafi bị quân cách mạng giết.
Mobutu Sese Seko, một trong những tên độc tài tàn ác nhất Phi Châu, có tài sản ước lượng 5 tỉ đô do biển thủ suốt 32 năm cai trị Congo. Sau khi thăm viếng lãnh tụ CS Bắc Hàn Kim Nhật Thành về, Mobutu đã rập khuôn theo cách cai trị tàn ác của họ Kim. Y ra lịnh thay đổi tên đường, tên phố, quốc kỳ, quốc ca, và tháng 10, 1971 thay cả tên nước. Mobutu Sese Seko là một trong những nhà độc tài đã được đón tiếp trịnh trọng đến bốn lần (ba lần dưới thời Ronald Reagan, một lần dưới thời George H. W. Bush) tại Phòng Bầu Dục Tòa Bạch Ốc. Tuy nhiên, cũng chính phủ Mỹ năm 1993 đã từ chối cấp thông hành cho Mobutu vào Mỹ khi con cờ chống Liên Xô tại Phi Châu đã không còn cần thiết.

Từ “Xoay trục Thái Bình Dương” (Pacific Pivot) đến “Tái cân bằng” (Rebalance) Á Châu của Mỹ

- Thời TT Bill Clinton. Các nhà chiến lược Mỹ đã thấy nhu cầu xoay trục sang Á Châu rất sớm. Sau Chiến tranh Lạnh, quyền lợi kinh tế thương mại đã được nâng lên ngang tầm với quyền lợi về an ninh quốc gia. Bộ trưởng Thương Mại Ron Brown dưới thời Bill Clinton đã tuyên bố “Quyền lợi thương mại hiện nay ngang mức với an ninh thế giới trong chính sách đối ngoại”. Thượng Đỉnh của Diễn Đàn Hợp Tác Kinh Tế Á Châu Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11, 1993 tại Seattle tất cả thành viên của ASEAN, ngoại trừ Mã Lai, đều tham dự. Quan hệ mậu dịch hai chiều giữa Mỹ và các nước ASEAN vào 1996 đã lên đến 109 tỉ đô la, 57% cao hơn so với Trung Cộng và cao hơn so với Nam Mỹ hay so với Phi Châu. Việc TT Clinton đồng ý tái lập quan hệ ngoại giao với CSVN vào tháng Bảy 1995 cũng là phần trong chiến lược xoay trục sang Á Châu của Mỹ. Tuy nhiên suốt thời kỳ của TT Bill Clinton, chính sách Mỹ đối với Trung Cộng đặt nặng trên các yếu tố kinh tế thương mại hơn là quân sự. Theo kết quả thăm dò của Gallup năm 1999, 47 phần trăm số người được hỏi cho rằng TT Clinton đã đi quá xa trong việc duy trì một quan hệ xây dựng với Trung Cộng.

- Thời TT George W. Bush. TT George W. Bush thuộc đảng Cộng Hòa và bộ tham mưu của ông là những Cộng Hòa bảo thủ. Chính sách đối ngoại của TT George W. Bush được các tóm tắt bằng ba chữ ABC (Anything But Clinton) nghĩa là bất cứ chính sách nào ngoại trừ các chính sách đã được TT Bill Clinton theo đuổi. Suốt thời gian vận động ứng cử George W. Bush nhấn mạnh Trung Cộng là một đe dọa chiến lược đối với Mỹ chứ không phải là hợp tác chiến lược như TT Clinton biện hộ. Condoleezza Rice, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia và sau đó là Ngoại Trưởng thời TT Bush tố cáo “Trung Cộng đang thay đổi cán cân quyền lực theo ý họ”. Chỉ 100 ngày sau khi nhậm chức, TT George W. Bush tuyên bố “sẽ làm tối đa những gì để có thể làm để giúp Đài Loan bảo vệ chính họ” trong trường hợp bị Trung Cộng tấn công. Các tổng thống tiền nhiệm dù Cộng Hòa hay Dân Chủ đều tránh trả lời một cách dứt khoát như TT George W. Bush.

- Trung Cộng “đục nước béo cò” sau biến cố 9/11. Biến cố ngày 11 tháng 9, 2001 đã buộc chính phủ Mỹ đặt trọng tâm vào Trung Đông hơn là Á Châu Thái Bình Dương. Mỹ cũng cần hòa dịu với Trung Cộng vì muốn Trung Công nếu không ủng hộ Mỹ công khai tại Liên Hiệp Quốc và các diễn đàn quốc tế, ít ra cũng bằng lòng ngầm khi Mỹ phát động chiến tranh tại Iraq và Afghanistan. Chiến tranh Iraq là một cơ hội để Trung Cộng bành trướng Á Châu Thái Bình Dương. Yuan Peng, Giám đốc bộ phận Mỹ thuộc Viện Trung Quốc về Quan Hệ Quốc Tế Hiện Đại thừa nhận “Chúng tôi nắm lấy cơ hội để cải thiện kinh tế, cải thiện các mối quan hệ với láng giềng và cải thiện quan hệ với Mỹ”. Gọi là “cải thiện các mối quan hệ với láng giềng” nhưng thực chất là Trung Cộng gây sự với hầu hết các nước trong vùng như Nhật Bản qua vụ xung đột đảo Senkaku vào tháng Chín 2010, bắn vào tàu đánh cá Philippine và kiểm soát Việt Nam một cách chặc chẽ hơn. Chính phủ Mỹ nghĩ rằng dù sao Trung Cộng nên hành xử với tư cách một cường quốc có trách nhiệm và giữ đúng lời cam kết mà Hồ Cẩm Đào “không chủ trương độc quyền bá chủ” Á Châu Thái Bình Dương. Thực tế đã trái ngược. Từ năm 2006, Trung Cộng chi tiêu dành cho quốc phòng cao thứ năm trên thế giới và có mức gia tăng hàng năm cao hơn bất cứ quốc gia Tây Phương nào.
- Thời TT Barack Obama. Các chính sách dưới thời TT Obama bao gồm thỏa hiệp tự do mậu dịch với Nam Hàn (FTA), tham gia đàm phán TTP là bước tiếp tục đã được thực hiện từ thời TT George W. Bush. Chủ trương hiện đại hóa quân sự một cách cấp bách của Trung Cộng đã đặt ra cho các nhà làm chính sách Mỹ một chọn lựa phải cứng rắn và cụ thể hơn trước sự bành trướng quân sự của Trung Cộng.
Năm 2010 tại Hà Nội, Hillary Clinton, lúc đó là Ngoại Trưởng, tuyên bố mạnh mẽ Hoa Kỳ sẽ “chống lại việc bất cứ một quốc gia tranh chấp nào sử dụng vũ lực”. Cùng vào thời gian đó, để đánh dấu 15 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước, Mỹ gởi hàng loạt chiến hạm viếng thăm Đà Nẵng hay trong khu vực biển Đà Nẵng như Hàng Không Mẫu Hạm USS George Washington, khu trục hạm USS John S. McCain. Năm trước đó, khu trục hạm USS Blue Ridge USS Lassen, tàu bịnh viện USNS Mercy, hàng không mẫu hạm USS John C. Stennis và cả soái hạm của Đệ thất Hạm đội USS Blue Ridge cũng thăm viếng Việt Nam. Mùa thu 2011 đánh dấu thời điểm chính quyền Obama đặt ưu tiên sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Á Châu lên hàng đầu như đã khẳng định trong diễn văn trước Quốc Hội Úc tháng 11, 2011.
Mặc dù ngân sách quốc phòng Mỹ trong tài khóa 2011, 2012 bị cắt giảm nhưng ảnh hưởng Lục Quân và Thủy Quân Lục Chiến nhiều hơn là Hải Quân. Điều đó cho thấy Á Châu-Thái Bình Dương đã được đánh giá cao trong quan điểm của các nhà chiến lược quốc phòng Mỹ. Khái niệm Trận chiến Hải Không (Air-Sea Battle) gọi tắt là ASB là một khái niệm chiến tranh mới do các chiến lược gia quốc phòng Mỹ đặt ra. Khái niệm này được nhắc đến lần đầu vào năm 2010 và là một trong những điểm được các nghị sĩ và dân biểu Mỹ quan tâm nhất. Chiến lược ASB nhắm vào hai đối tượng thù địch là Trung Cộng và Iran.
Sự kiện đưa máy bay thám thính tối tân nhất của Mỹ US P8-A Poseidon bay trên khu vực Trung Cộng đang xây đảo nhân tạo trên Biển Đông và Khu trục hạm chiến đấu USS Forth Worth cũng tiến vào khu vực Trung Cộng cho rằng thuộc chủ quyền của họ là một thể hiện của phối hợp chiến lược ASB. Hôm 18 tháng Bảy vừa qua, đích thân Đô đốc Scott Swift, Tân Tư Lịnh Đệ Thất Hạm Đội Mỹ đã bay trên phi cơ thám tính U.S. P-8A Poseidon suốt bảy giờ trong Biển Đông. Phát ngôn viên Trung Cộng phản ứng nhẹ và xem đó là một sự kiện quân sự hơn là một biến cố ngoại giao và kêu gọi Mỹ không nên chọn phe trong cuộc tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Trung Cộng và các quốc gia khác trong vùng.

Chính sách bao vây, ngăn chận (containment) của Mỹ đối với Trung Cộng
Liên Xô từng rất mạnh ở trung tâm nhưng yếu ở các vòng ngoài và đã dẫn đến tan vỡ khi các quốc gia vùng Baltic và Trung Á ly khai đòi độc lập. Các lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc luôn bị ám ảnh với các những cuộc nổi dậy như Thiên An Môn có thể xảy ra bất cứ lúc nào và bất cứ tại đâu trên lãnh thổ mênh mông và dị biệt sâu sắc về kinh tế, văn hóa, xã hội. Và cũng giống như Liên Xô, lãnh đạo Trung Cộng buộc phải đáp ứng nhu cầu chuyển hóa tự nhiên của xã hội qua các đổi mới nhưng các lãnh đạo đảng cũng không thể biết trước giọt nước đổi mới nào sẽ làm tràn ly cách mạng dân chủ.
Các nhà chiến lược Mỹ dĩ nhiên chuẩn bị cho mọi khả năng sụp đổ của Trung Cộng nhưng dù khả năng nào, chính sách bao vây ngăn chận tham vọng bành trướng của Trung Cộng vẫn là chính sách được hầu hết các tổng thống Mỹ đã và đang theo đuổi. Trong thời gian tới, Mỹ sẽ gia tăng áp lực, kể cả áp lực quân sự, từ bên ngoài để Trung Cộng một ngày sẽ tan vỡ từ bên trong, giống như các TT Mỹ từ Harry Truman đến Ronald Reagan đã thực hiện và thành công đối với Liên Xô.

Mỹ, Trung Cộng và Việt Nam là tam giác?
Trong bài báo mới đây trên The Diplomat “A Tipping Point in the US-China-Vietnam Triangle”, tác giả Alexander L. Vuving cho rằng quan hệ giữa Mỹ, Trung Cộng và Việt Nam đang thay đổi sâu sắc và ở trong thế tam giác.
Đánh giá Việt Nam dưới chế độ CS như là một quốc gia có tư thế độc lập không phản ảnh thực tế kinh tế chính trị của Việt Nam trong bang giao quốc tế. CSVN không có được vị trí của một chân kiềng hay chân vạc gì cả. Trung Quốc và Mỹ đều muốn làm thầy, làm chủ để sai khiến giới lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam thuận theo chính sách của họ hơn là một đồng minh thân cận.
Trong buổi tiếp xúc với “cử tri Hà Nội” hôm 18 tháng 7, Nguyễn Phú Trọng tuyên bố một cách đắc chí “Rất hay là vừa đi Mỹ về, thì Phó thủ tướng Trung Quốc cũng sang đây”. Nói vậy mà không biết mắc cỡ. Chẳng có gì hay. Việc Barack Obama tiếp Nguyễn Phú Trọng, trong chiến lược chống Trung Cộng bành trướng Á Châu cũng không khác gì khi Richard Nixon tiếp Sese Seko của Congo hay Ronald Reagan tiêp Samuel Doe của Liberia trong chiến lược chống Liên Xô bành trướng sang Phi Châu. Tất cả chỉ là những con cờ ngắn hạn của Mỹ.

Kết luận
Việt Nam hiện trong vị trí của một quốc gia độn (buffer state). Bài học từ hai cuộc chiến Triều Tiên và Việt Nam cho thấy Trung Cộng bằng mọi cách sẽ giữ quốc gia độn Việt Nam trong vòng lệ thuộc hay ảnh hưởng. Mỹ cũng biết Trung Cộng không dễ dàng thả lỏng Việt Nam nhưng với chính sách bao vây, Mỹ tiếp tục gây áp lực kể cả áp lực quân sự để Trung Cộng đến một thời điểm chín mùi cho sự tan rã sẽ tan rã từ bên trong.
Đành rằng nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Cộng với 30% nhập cảng, 12% xuất cảng, 25% du khách viếng Việt Nam, nhưng Trung Cộng không phải là nước không phụ thuộc vào ai. Khoan nhắc đến các yếu tố tham nhũng có tính đảng, chủ nghĩa dân tộc tai họa, tình trạng nhân quyền tồi tệ, ô nhiễm hàng đầu thế giới, chỉ riêng nền kinh tế suy thoái do giảm đầu tư nước ngoài, mức xuất cảng các sản phẩm kỹ nghệ nặng xuống thấp, mất cân đối trong các ngành sản xuất là những vấn đề mà các lãnh đạo Trung Cộng phải điên đầu.
Giả thiết Việt Nam là một Nam Hàn, Singapore, Thái Lan, Mã Lai, Trung Cộng có thể vẫn tìm cách gây hấn, ăn hiếp nhưng không sai khiến các “lãnh đạo” như sai đầy tớ, muốn cho gặp thì gặp không muốn thì thôi như Tập Cận Bình đối xử với các lãnh đạo CSVN.
Ngoài Việt Nam, Trung Cộng chia sẻ biên giới với 13 quốc gia khác (India, Pakistan, Afghanistan, Tajikistan, Kyrgyzstan, Kazakhstan, Mongolia, Bhutan, Nepal, Miến Điện, Nga, Bắc Hàn, Lào). Phần lớn các quốc gia này nhỏ hơn Việt Nam nhiều nhưng không có một lãnh đạo quốc gia nào phải chầu chực, hầu hạ các lãnh đạo Trung Cộng như cách các lãnh đạo CSVN đã và đang làm.
Lý do Trung Cộng sai khiến lãnh đạo CSVN dễ dàng vì chúng biết rõ gan ruột của đàn em một lần phản trắc này xem quyền lợi của đảng lớn hơn, quan trọng hơn sự quyền lợi của đất nước. Duy trì quyền cai trị của đảng CS là mục tiêu tối thượng, chi phối toàn bộ chính sách đối nội và đối ngoại, ngắn hạn cũng như dài hạn của đảng CSVN.
Khi phân tích về quan hệ giữa Việt – Mỹ và Việt – Trung, nhiều nhà phân tích Tây phương bỏ sót một yếu tố có tính quyết định, đó là cơ chế chính trị. Nếu đi ngược dòng lịch sử Việt Nam cận đại, các nhà phân tích đó sẽ thấy cốt tủy của mọi xung đột chính là cơ chế chính trị CS.
Muốn đứng thế chân vạc, một quốc gia trước hết phải có vị trí độc lập trong tương quan về chính trị, kinh tế và quân sự quốc tế. CSVN không có được vị trí độc lập và sẽ không bao giờ có được vị trí độc lập khi nào đảng CS vẫn còn độc quyền cai trị Việt Nam. Để có một vị trí độc lập trong bang giao quốc tế và để tạo thế liên minh tin cậy chiến lược, Việt Nam trước hết phải là một quốc gia dân chủ.

August 24, 2015
Trần Trung Đạo

Tham khảo:
– YU Wanl, Breaking the Cycle?: Sino-US Relations under George W. Bush Administration. Chapter 3 and chapter 4. The National Institute for Defense Studies, 2009.
– Congressional Research Sevice. Pivot to the Pacific? The Obama Administration’s “Rebalancing” Toward Asia. , March 2012.
– Anna Rabin, US-China Relations in the Bush Era – Strategic Partners or Competitors? February, 2012
http://inpecmagazine.com/2012/02/01/us-china-relations-in-george-w-bush-era-hu-jintao/
– MARK MacKINNON, China’s chance: How 9/11 played into Beijing’s plans in Asia, The Globe and Mail, Sep. 08, 2011
http://www.theglobeandmail.com/news/world/chinas-chance-how-911-played-into-beijings-plans-in-asia/article593666/
– George W. Bush on China. GeorgeWBush.com, May 25, 1999 http://www.ontheissues.org/Celeb/George_W__Bush_China.htm
– Mark E. Manyin, Pivot to the Pacific? The Obama Administration’s “Rebalancing” Toward Asia, Congressional Research Service, March 28, 2012.
– Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York 2011
– Robert Mcmahon. Limits Of Empire, The United States and Southeast Asia Since World War II Columbia University Press pp 210, 211, 213
– Council on Forein Relations, China ‘s Maritime Disputs By the Number. http://www.cfr.org/asia-and-pacific/chinas-maritime-disputes/p31345#!/
– Hillary Clinton Laughs About Killing Moammar
http://www.realclearpolitics.com/video/2015/06/19/flashback_2011_hillary_clinton_laughs_about_killing_moammar_gaddafi_we_came_we_saw_he_died.html
– Tổng bí thư: Phía Mỹ tiếp đón “vượt mức yêu cầu”, VnEconomy, 18/7/2015.
http://vneconomy.vn/thoi-su/tong-bi-thu-phia-my-tiep-don-vuot-muc-yeu-cau-2015071801251242.htm
– Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc 09/04/2015
http://nhandan.com.vn/chinhtri/tin-tuc-su-kien/item/26031902-thong-cao-chung-viet-nam-trung-quoc.html
– Chinese State Media to Pacific Fleet: We Won’t Be Pushed Around in South China Sea
https://foreignpolicy.com/2015/07/20/chinese-state-media-to-pacific-fleet-we-wont-be-pushed-around-in-south-china sea/?utm_content=buffer07f9c&utm_medium=social&utm_source=facebook.com&utm_campaign=buffer
– Alexander L. Vuving. A Tipping Point in the US-China-Vietnam Triangle. The Diplomat, July 06, 2015.
http://thediplomat.com/2015/07/a-tipping-point-in-the-u-s-china-vietnam-triangle/
– Minxin Pei. 5 Ways China Could Become a Democracy. The Diplomat February 13, 2013.

http://www.trantrungdao.com