Ngô Đình Cẩn, ông là ai?

nguyen van luc
 Nguyễn Văn Lục

Tựa đề trên cho bài viết này, tôi lấy cảm hứng từ bài biện hộ ba tiếng đồng hồ của luật sư Võ Văn Quan đặt ra cho những kẻ đứng trên cả pháp luật như Nguyễn Khánh với sắc luật 4/64, những quan tòa nhân danh công lý ngồi xử ông Cẩn, cho các nhân chứng tố cáo ông Cẩn, cho tất cả những ai thù ghét cũng như quý mến ông Cẩn phải trả lời được câu hỏi: Ngô Đình Cẩn. Ông là ai?

ngodinhcan
Ông Ngô Đình Cẩn, 53 tuổi bệnh tiểu đường, ra toà ngày 16 tháng 4, 1964. Ông tuyên bố vô tội. Nguồn: UPI

Theo dõi phiên tòa với lời biện hộ của luật sư Quan cho ông Cẩn, hầu như có một sự im lặng chạy suốt căn phòng tòa án. Sự im lặng ấy phải chăng luật sư đã đánh động được một cái gì, cái gì đó của những người có mặt.
Nam Đình có đặt câu hỏi: tôi không biết 9 năm ở Huế ông hét ra lửa như thế nào, chớ hôm nay ra tòa, tôi ngồi cách bị can 4 thước mà tôi không nghe thấy gì hết, mặc dầu tôi ở cạnh sông Hương núi Ngự bao nhiêu năm. (Bài tường thuật của nhà báo Nam Đình cho tờ báo Thần Chung)
Xin trích lại lời luật sư Võ Văn Quan sau lời bào chữa cho ông Cẩn:
“Dứt lời, tôi ngồi xuống trong im lặng. Nơi cuối phòng xử có tiếng vỗ tay lẻ loi của một người nào đó(...) Tôi day lại nhìn ông Cẩn. Ông nói: cám ơn luật sư thật nhiều”. Anh cựu thủ lãnh luật sư đoàn Phan Kiến Khương nhìn tôi gật đầu mỉm cười. Phần ông thủ lãnh luật sư đoàn Nguyễn văn Huyền trầm tĩnh hơn, kéo tay tôi ra nói riêng: “Ông ủy viên chính phủ này không phải tay vừa. Anh nên cẩn thận đừng nóng nảy đi quá trớn, sơ xuất để cho Tòa có cớ làm khó dễ anh. Lúc nào tôi cũng có mặt trong phòng xử để bênh vực anh.”
(Võ Văn Quan, “Luật sư, Nghề hay Nghiệp? Vài cảm nghĩ và kỷ niệm về một thời hành nghề. Vụ án Ngô Đình Cẩn”. Hay là “Từ cố vấn chỉ đạo thành tử tội” Độc quyền của tờ Ngày Nay, 1992)
Ghi chú về Ls Quan: Luật sư Võ Văn Quan tốt nghiệp luật năm 1954 về luật dân sự tại Sài Gòn, chuyển hướng sang hành nghề luật hình sự từ 1960. Ông từng là luật sư của nhiều vụ án liên quan đến chính trị thời đệ nhất và đệ nhị cộng hòa như vụ các nhân sĩ trong nhóm Caravelle, vụ tướng Dương Ngọc Lắm, vụ thiếu tướng Lâm văn Phát, bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn, vụ đại tá Đàm Quang Yêu, vụ dân Biểu Trần Ngọc Châu, vụ kỹ sư Trương Như Tảng v.v...
Tư cách và sự can đảm của Ls Võ văn Quan trong vụ biện hộ cho nhóm Caravelle, thời đệ nhất cộng hòa, là nguồn cớ cho việc ông được bà Trần Trung Dung đến mời ông cãi dùm cho ông Cẩn. Có nhiều luật sư có tiếng tăm, quen thân thiết với gia đình đã từ chối không dám nhận cãi cho ông Cẩn.
Tại sao có sự im lặng ấy? Đó là cái nghịch cảnh của vụ xử án này. Kẻ dưới quyền, ra vào luồn cúi chịu ơn mưa móc nay trở thành kẻ ngồi xử án. Trong buổi trả lời ký giả Hồng Phúc, Ls Võ Văn Quan đã tiết lộ cho biết
“Sau phiên tòa đầu tiên, ông Cẩn cho biết những kẻ ngồi xử án ông (3 sĩ quan cấp đại tá, một trung tá), ông Cẩn có nói rõ tên là những kẻ phản phúc. Đôi khi ông Cẩn nhìn họ với cặp mắt long lanh qua gọng kính của ông, những kẻ ấy gặp cái nhìn ấy thì bẽn lẽn quay mặt ra chỗ khác.”
(Trong vụ xử ông Ngô Đình Cẩn, theo luật sư Võ Văn Quan khi trả lời phỏng vấn của ký giả Hồng Phúc cho Thế giới Ngày Nay, ngày 17-3-2012. Trích nguyên văn lời luật sư Quan.)
Theo Ls Quan:
“Thành phần xử án ông Ngô Đình Cẩn gồm: Lê Văn Thụ, chánh án. Phụ thẩm: đại tá Nguyễn Văn Chuân, đại tá Đặng Văn Quang, đại tá Trương Văn Chương, trung tá Dương Hiếu Nghĩa. Phụ thẩm Nhân dân gồm quý ông: Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Văn Yến, Nguyễn Hữu Sửu và Bùi Văn Nhu. Chưởng lý: Thiếu tá Nguyễn văn Đức. Lục sự Nguyễn văn Tâm. Trong hồ sơ ghi: Án Tòa Cách Mạng, do sắc luật 4/64, ngày 20-2-1964.”
Không dám đoan chắc nhưng trong 1 số video clip và hình ảnh xem được có C.Á. Lê Văn Thu/Thụ trông rất giống thầy Đẩu dạy lớp đêm về Littérature Française, rất nổi tiếng ở trường Huỳnh Thị Ngà cuối thập niên 50 đầu 60, nhà thầy là 1 căn phố ngó cheo chéo sang trường. Hai người khá giống nhau về tướng tá, nước da nhất là cái miệng hơi lệch (giống chiếc mồm méo mó của Thủ Tướng Jean Chrétien của Canada nhưng đở hơn nhiều)Thành phần xử án này do chính tay Nguyễn Khánh ký Sắc lệnh số 120-TP cử các tay chân của ông như các các đại tá kể trên.
Cũng theo Ls Võ văn Quan nhận xét về 4 vị sĩ quan trên trong sách của ông:
“Thành tích của ông Đặng Văn Quang thiên hạ biết quá nhiều, xin miễn nhắc đến. Thành tích của đại tá Nguyễn văn Chuân ra sao, xin quý độc giả đọc xem quyển Việt Nam Nhân Chứng của tướng Trần văn Đôn sẽ thấy không có gì đáng đề cao. Đại tá Trương Văn Chương về sau dính líu trong một vụ buôn lậu. Về phần Trung tá Dương Hiếu Nghĩa không đầy một năm sau vụ án Ngô Đình Cẩn, tôi lại gặp ông một lần nữa trong phòng xử này, nhưng ông tụt xuống ngồi trên ghế bị cáo vì dính líu trong vụ đảo chánh ngày 13-9-1964, chuyện đời có lắm sự trớ trêu không thể ngờ được như vậy.”
(Võ Văn Quan, ibid, Báo Thế giới ngày nay, số 108, tháng 2-3/93, trang 89)
Phải chăng đây là một ván bài lật ngửa? Kẻ kết án trở thành bị cáo?
Trong phần phỏng vấn của ký giả Hồng Phúc với Ls Võ Văn Quan có một câu hỏi khá là quan trọng như sau:
Theo luật sư, Ông Ngô Đình Cẩn là người có tội hay vô tội?
Ls Võ Văn Quan: Để trả lời câu hỏi này, tôi chỉ căn cứ trên hồ sơ của bị can Ngô Đình Cẩn. Nếu căn cứ trên hồ sơ thì không có bất cứ bằng cớ nào cũng không có bất cứ giấy tờ của ông Cẩn ra lệnh cho các công an trong vụ tống tiền và thủ tiêu các nạn nhân gián điệp miền Trung. Tôi đã xin hỏi Ủy Viên chính phủ: “Trong hồ sơ có công văn nào giao quyền cho ông Cẩn chỉ huy bộ máy tư pháp, có một chỉ thị do bị can ký tên ra lệnh cho các công an viên đó hay không?” Tuyệt nhiên không có. Không có văn thư, không có bằng cớ đích xác đó, ủy viên chính phủ đành phải đưa ra nhân chứng để buộc tội ông Cẩn cho được. Nhưng nếu không được xác nhận bằng văn thư cụ thể khách quan, có gì bảo đảm rằng các nhân chứng vô tư, không bị chi phối vì tư lợi, không bị mua chuộc hay hăm dọa. Những người được gọi là nhân chứng này thực sự họ là ai? Mấy nhân chứng này là những người lật lọng tráo trở, quý tòa không thể nào tin vào lời nói của họ được!
Luật sư Võ Văn Quan đã trích dẫn một nguyên tắc pháp luật trong luật Hình sự được quy định rõ ràng như sau:
“Một điều luật trong Bộ Hình Sự quy định rằng Tòa phải – và chỉ – căn cứ vào hồ sơ mà thôi để phán xử, thậm chí những điều gì vị thẩm phán tự mình biết được, nhưng không có ghi nhận trong hồ sơ, thẩm phán ấy cũng không được quyền căn cứ sự hiểu biết riêng tư đó mà xử tội. Điều luật ấy rất công minh: những hiểu biết riêng tư không có ghi lại trong hồ sơ, không được Công Tố Viện và bên biện hộ nghiên cứu và tranh luận để nhận định xác tín, tức nhiên không thể dùng làm căn bản cho việc xét xử được.”
(Võ Văn Quan, ibid, Ngày Nay, số 107, tháng 1-93).
Và sau đây là lời nói chót của ông Cẩn:
“Ông điềm nhiên, chậm rãi nói rằng mình vô tội, không có quyền hành, không có ra lịnh cho các công an viên làm sự phi pháp. Ông không van xin cầu khẩn gì hết. Ông biết cái luật chơi tàn nhẫn của chính trị và ông có vẻ điềm tĩnh chấp nhận, mặc dầu đối tượng cuộc chơi chính là sanh mạng của mình.”
(Võ Văn Quan, Ibid, Ngày Nay, số 110. Tháng 5-93)
Về phía ông Ngô Đình Cẩn, sau khi bị tuyên án tử hình, ông Cẩn không nhận tội và một mực kêu mình vô tội.

Luật sư Võ Văn Quan và ông Ngô Đình Cẩn trong khám Chí Hoà (1964). Nguồn: Petrotimes.

Nhưng Ls Võ Văn Quan cũng thừa biết rằng không thể nào có bản án tha bổng. Phiên xử tại Sài Gòn trừ ông Ngô Đình Cẩn, bà Trần Trung Dung, Ls biện hộ, thì đều tin chắc rằng: Bản án tử hình đã được định trước rồi. Tất cả chỉ là màn trình diễn như một vở kịch lớp lang có thứ tự đầu đuôi.
Người ta tự hỏi Công lý nằm ở chỗ nào trong Tòa án? Nằm ở phía trên ba tòa quan lớn với Lê Văn Thụ, Chánh thẩm. Lê Văn Đức, Công Tố Viên? Hay là nằm ở đằng sau cánh cửa tòa án với những nguời mà bà Trần Trung Dung sau này ở bên Mỹ có dịp kể lại từng chi tiết rõ ràng cho Ls Quan về những sách nhiễu tiền bạc bỉ ổi, những thủ đoạn gian manh đằng sau vụ án? Và quan trọng hơn cả là việc trao đổi trên xác chết Ngô Đình Cẩn của Nguyễn Khánh muốn lấy lòng nhóm Phật giáo Trí Quang? Khánh xoay đổi sự liên kết của ông cho phe phái nào hứa hẹn xét ra có lợi cho ông, ông sẽ ngả về phía ấy.
Luật sư Võ văn Quan thừa hiểu dụng tâm của Nguyễn Khánh:
“Để mua chuộc cảm tình của giới Phật giáo. Chánh quyền tuyên bố sẽ đem Ngô Đình Cẩn ra xét xử ngay. Đúng. Ông Cẩn phải bị đưa ra xét xử để trả lời về những tội trạng của ông. Nhưng đột ngột đưa ông ra xét xử, với mục đích mua chuộc sự ủng hộ của giới Phật Giáo, mua thời gian cho chánh quyền- Đó không phải là hành xử công lý, nhưng là “thủ đoạn chính trị lợi dụng công lý.”
(Ls Võ Văn Quan, ibid., Báo Ngày Nay, số 107, tháng 1-93)
Nguyễn Khánh đã chuẩn bị một hành lang pháp lý với sắc luật số 4/64 ngày 28.2.1964 để có thể đưa những người như Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn, Đặng Sỹ ra tòa và họ sẽ không tránh khỏi bản án tử hình. Khánh đã đưa đại tá Nguyễn Văn Mầu, Giám đốc Nha Quân Pháp, lên làm Bộ Trưởng Tư pháp để đưa ra luật 4/64.
Hiện nay tôi cũng không ai biết danh tánh nhóm luật sư nào đã soạn thảo bộ luật 4/64. Và dù nay có biết, họ cũng cố tình dấu nhẹm không để lộ danh tánh. Rồi ai là người ký bộ luật này để đem ra thi hành?
Quốc Trưởng Dương Văn Minh hay Thủ tướng Nguyễn Khánh? Nhưng Nguyễn Khánh đã khẳng định đổ hết tội lên đầu Dương văn Minh: cái chết của anh em ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Cẩn là do sự trả thù cá nhân của Dương Văn Minh.
Nguyên tắc của Bộ luật này là không tôn trọng nguyên tắc bất hồi tố của hình luật. Vì thế, tòa án có thể xử những tội ác gây ra trong thời gian từ 26-10-1955 đến 1-10-1963.
Điều 5, cấm tòa án cách mạng không được quyền giảm khinh, cũng như không được phạt án treo. Điều 16, cấm các bị cáo không được kháng cáo.
Đây là những điều luật giết người vô cùng dã man. Ngậm ngùi thay cho đất nước vào hồi mạt vận nên gặp phải những kẻ gian Xảo vô tài lại bất lương, chối tội.
Đối với luật sư biện hộ thì văn hoa hơn, ông cho rằng khi “chính trị đi vào cửa trước thì pháp luật phải luồn ra cửa sau”. Ông cũng không quên viện dẫn trường hợp cách mạng Pháp như lời nói cuối cùng trước khi tòa định án như sau:
“Trong cuộc cách mạng năm 1789 của Pháp, Quốc Hội gọi là Convention Nationale, bầu trong thời kỳ La Terreur (Khủng bố) gồm đa số là những người do tên độc tài khát máu Ropespierre dùng áp lực đưa vào. Ropespierre đã tuyên bố là phải có án tử hình. Trong phiên tòa đặc biệt đó, Nhiều người của Convention Nationale đã cật vấn hằn học, mạt sát thậm tệ vua Louis XVI, cho thấy trước rằng họ sẽ bỏ phiếu tuyên án tử hình.
Khi đứng lên biện hộ cho Louis XVI, luật sư De Sège đã can trường nói thẳng với họ:
“Je viens ici chercher des Juges, mais je ne trouve que des Bourreaux.” (Tôi đến đây tìm những vị thẩm phán quan, nhưng tôi chỉ gặp những tên đao phủ thủ.)”
(Ls Võ Văn Quan, Ibid, số 119, tháng 5-93)
Dẫn chứng này của luật sư Võ Văn Quan có khác chi chỉ thẳng vào các sĩ quan đang ngồi xử án trên kia, họ không phải quan tòa mà chỉ là những tên đao phủ thủ không hơn không kém!
Lời kết án nặng nề như thế vậy mà các vị phán quan ngồi xử án ngồi im lặng không một ai lên tiếng phản đối.
Hay ngược lại, phải chăng nó nằm ở phía bị cáo ở vành móng ngựa? Ngô Đình Cẩn là ai? Nếu không có luật 4/64 thì cái đầu của Ngô Đình Cẩn vẫn còn dính trên cổ? Ông Cẩn không chết vì tội đã làm mà chết vì khung pháp lý bất nhân như lưỡi hái tử thần phập xuống.
Vì thế, cho đến khi tôi cầm bút viết bài này, câu trả lời Ông Cẩn là ai? không phải là dễ cho bất cứ ai. Nhiều uẩn khúc vẫn còn đó.
Tướng Khánh phủ nhận mọi cáo buộc ông.
Trong suốt thời kỳ Đệ Nhị Cộng Hòa, hầu như không một ai đã có dụng tâm muốn dở lại hồ sơ vụ án tử hình Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn và Đặng Sỹ. Mọi người muốn quên chăng? Cùng lắm người ta nhắc nhiều đến cái chết của anh em ông Diệm-Nhu với hằng trăm tài liệu phần lớn của người ngoại quốc viết.
Trường hợp ông Cẩn là bị bỏ quên hoàn toàn.
Chê có thể không đáng chê mà khen thì không tiện vì ông chỉ là một người ít học quê mùa, việc chính yếu của ông là thay anh em phụng dưỡng mẹ già. Thói thường người mình thường coi thường kẻ ít học. Dĩ chí đến anh em trong nhà cũng có thể có tâm trạng coi khinh “Cậu Cẩn”. Cộng thêm chức cố vấn chỉ đạo miền Trung mà chắc chắn không có văn thư chính thức nào của tổng thống phủ. Theo Trung tá Nguyễn Văn Minh do nhu cầu kết hợp các tổ chức đoàn thể miền Trung đã đưa đến quyết định thiết lập một văn phòng chỉ đạo do ông Ngô Đình Cẩn cầm đầu. Nó không có ngân sách, không thuộc hệ thống hành chánh chính phủ. Trong đó văn phòng cố vấn chỉ đạo chỉ có tính cách nội bộ, địa phương, không dính dáng đến chính quyền, được thành lập từ cuối năm 1957.
Sau này ra Hải ngoại tôi thấy đã bắt đầu xuất hiện nhiều hồ sơ lẻ tẻ liên quan xa gần đến nội vụ như: Bạch truyện tự ghi của Trí Quang, Thôn nữ Tự Truyện của bà Ngọc An, vợ của Trung Tá Trần văn Thưởng, giám đốc Nha công an Trung Phần. Hồ sơ Thống Nhất Phật Giáo của Đỗ Trung Hiếu. Nhất là cuốn: Tổng kết nội vụ Phật giáo và Đại Học (ghi Tối mật, dạng photocopy có dấu triện trên từng trang một) của Lê Dư, trưởng ty Cảnh sát Quốc Gia Thừa Thiên kính gửi Trung tướng chủ tịch Ủy Ban điều hành Trung nguyên Trung Phần. Rồi Bạch Thư của TT Thích Tâm Châu. Có những tài liệu đáng nghi ngại in photocopy, không đề tên tác giả như: Giấc Mơ lãnh tụ, ám chỉ hoạt động của Trí Quang và Phật giáo miền Trung.
Càng đọc càng thấy nhiều uẩn khúc, nhiều điều cần được suy nghĩ và nói ra.
Tôi cũng biết chắc, 10 người hết cả mười không mấy ai có cơ hội đọc Cuốn Hồ sơ Nhân Quyền: Phúc trình của phái đoàn điều tra Phật giáo. Bản báo cáo đầy đủ của Phái đoàn Điều tra Liên Hiệp Quốc phỏng vấn các nhân chứng nạn nhân, 1963. Và khi về họ đã đi đến kết luận: Không có đàn áp tôn giáo ở Việt Nam.
Và nếu ai cũng có cơ hội đọc được cuốn này thì hiểu rõ thực chất vụ tranh đấu Phật giáo, tránh được biết bao tranh cãi vô ích?
Về sách Mỹ liên quan đến Phật giáo, tôi rất trân trọng với cuốn: Lotus Unleashed, The Buddihst Peace movement in South Vietnam 1964-1966 của Robert J. Topmiller. 2002.
Đọc cuốn này để hiểu Trí Quang là ai? Và Phật giáo trong giai đoạn 1964-1965 thực chất là một lực lượng chính trị đi song song với MTGPMN.
Tuy nhiên, cá nhân tôi bắt đầu lưu ý tới ông Ngô Đình Cẩn khi được Trung tá Nguyễn Văn Minh, Văn phòng ông Cẩn trong 9 năm viết hai cuốn sách: "Dòng họ Ngô Đình, giấc mơ chưa đạt" và cuốn thứ hai gần đây: "Dòng họ Ngô Đinh, Giấc mơ bị phản bội". Tôi có cơ hội hiểu biết thêm về ông và những nguồn dư luận bên ngoài.
Tuy nhiên, tôi chỉ thực sự chú trọng tới hồ sơ Ngô Đình Cẩn khi được đọc các tài liệu phía bên kia: Cuốn Bội Phản hay Chân Chính của Dư Văn Chất cũng như bài “Nhà văn bất đắc dĩ” của Dư Văn Chất. (Tài liệu này được Dư Văn Chất trao cho Nguyễn Văn Trung khi ra hải ngoại).
Tài liệu tiếp theo là của Mười Hương trong cuốn: Tình Báo Chiến Lược. Và cuốn mới đây nhất cũng chỉ nhắc lại những ý kiến trước đây: cuốn Trần Quốc Huơng, người chỉ huy tình báo, do Nguyễn Thị Ngọc Hải chấp bút, 2015.
Nhưng tôi phải thú thực cuốn sách có khả năng lôi cuốn và thuyết phục tôi một cách mãnh liệt và dứt khoát là cuốn sách của luật sư Võ Văn Quan, lúc còn in trên báo Ngày Nay, năm 1992 trở đi: "Luật sư, Nghề hay Nghiệp". Nay luật sư cũng đã không còn nữa.
Tôi viết bài này phần lớn dựa trên tài liệu của tác giả, người đã hết lòng biện hộ cho Ngô Đình Cẩn. Và nay cúi mình trước vong linh cả hai người: kẻ bị cáo và kẻ biện hộ.
Tiếp theo là các bài phỏng vấn giá trị của Ls Lâm Lễ Trinh với những nhân vật như tướng Nguyễn Khánh (Bài phỏng vấn Nguyễn Khánh nay không còn truy cập được nữa) Tôn Thất Đính, đại tá Nguyễn Văn Y, Tướng Huỳnh Văn Cao, v.v...
Cũng không thể nào không nhắc đến các bài phỏng vấn của ký giả Hồng Phúc phỏng vấn Trung tá Trần Văn Thưởng, trung tá Nguyễn Văn Minh.
Sau đó đến bài viết của tác giả Tú Gàn lên án kết tội tướng Khánh. Cũng như ông Bùi Duy Liêm, đài truyền hình Hoa Thạnh Đốn, phỏng vấn tướng Nguyễn Khánh và trong bài phỏng vấn này đã tránh né một cách vụng về những luận điểm của Tú Gàn.
Trong phần này, chúng tôi ghi lại những gì tướng Khánh nói để trả lời những lời kết án ông trong âm mưu giết Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn và Đặng Sỹ.
Tướng Khánh trả lời phỏng vấn của đài truyên hình Hoa Thịnh Đốn.
Trong dịp trả lời phỏng vấn của đài Truyền hình Việt Nam tại Hoa Thạnh Đốn THVN-HTĐ ở vùng thủ đô Washington do ông Bùi Dương Liêm phụ trách. Người phỏng vấn đã đề cập đến việc ai ra lệnh giết ông Ngô Đình Cẩn để hỏi tướng Khánh.
Tướng Khánh cho biết: ông rất quý mến ông Ngô Đình Cẩn, vì ông Cẩn là người hy sinh để ở nhà lo cho mẹ, thay cho các anh.
Nhưng ông đã trả lời vụng về là ông không còn nhớ ông hay ông Dương Văn Minh đã ký các sắc luật ấy.
Ông đã tìm hết cách cứu mạng ông Ngô Đình Cẩn. Ông nhìn nhận là chính ông ký sắc lệnh bổ nhiệm các sĩ quan trong bồi thẩm đoàn trong đó có Đặng Văn Quang là người công giáo, rất thân cận với ông Cẩn cũng như hai sĩ quan công giáo khác và hai sĩ quan Phật giáo.(Thật ra chỉ có 4 bồi thẩm đoàn, không phải năm). Và ông hy vọng ba sĩ quan công giáo sẽ bỏ phiếu không kết án tử hình ông Cẩn.
Nhưng theo ông Khánh, cuối cùng thì Ông đại tá Quang đã không làm gì cả. Mặt khác thì Đỗ Mậu mỗi ngày cũng đến hầu tòa và dọa mấy ông ngồi trên đó.
Khi hay tin ông Cẩn bị giết, cũng theo lời tướng Khánh nói, ông đau đớn lắm. Ông nói ông có liên hệ gia đình với ông Ngô Đình Diệm gần lắm, người ngoài không biết. Ông cũng từng nói với ông Dương Văn Minh, lúc đó làm Quốc Trưởng, quyền tha hay giết ông Cẩn là quyền của tướng Dương Văn Minh. Quốc Trưởng có thể đổi án tử hình thành tù chung thân, tại sao không làm như thế.
Ông Khánh còn cho rằng các tài liệu liên quan đến vụ án Ngô Đình Cẩn nay không còn nữa, ai tố cáo ông, xin nêu ra bằng cớ đi.
Ông Bùi Dương Liêm có đặt ra câu hỏi: “Luật tòa án Măt trận không được kháng án. Ai đặt ra luật đó?” Ông Khánh nói “Tôi không biết. Nhưng cứ cho tôi coi tài liệu!”
Trong đó, ông đặc biệt nhắc đến trường họp nhà báo Tú Gàn, tức Lữ Giang trong một bài báo viết tại California. Sau đó Tú Gàn có bài viết trả lời ngày 12.4.2009.
Tôi nghĩ rằng, Dương văn Minh được ông Khánh dựng lên, rồi bỏ đi như một thứ vật làm vì. Quyền hành tuyệt đối nằm trong tay một mình Nguyễn Khánh.
Tướng Nguyễn Khánh cũng như các tướng lãnh khác, cho đến khi chết, không một ai dám nói sự thật.
Đấy là sự thật trên cả sự thật. Họ tất cả đều hèn nhát.
Ghi lại quang cảnh ngày ông Ngô Đình Cẩn ra pháp trường do các nhà báo ghi lại tại chỗ.
Sau đây, chúng tôi xin trích nguyên văn quang cảnh pháp trường trong vụ xử ông Cẩn. Có lẽ chính trong cái bầu khí đượm chết chóc và thê lương ấy cho thấy cái không khí ấy rùng rợn như thế nào. Và chính cái chết ấy có thể để lại cho mỗi người chúng ta một bài học!!
Nhà báo Lý Quý Chung.
Một nhà báo trẻ tuổi Lý Quý Chung lúc bấy giờ, hẳn là không có mối hận oán gì với chế độ Đệ Nhất cộng hòa đã ghi lại tóm tắt như sau.
“Tôi vẫn nhớ thái độ ông Cẩn trước tòa án rất ngạo mạn, ông chẳng quan tâm gì đến diễn tiến phiên tòa. Chẳng chú ý tới các lời buộc tội ông. Ông mặc bộ đồ bà ba lụa mầu trắng, mắt nhắm nghiền như ngủ qua suốt các phiên xử. Nhiều lúc còn có cử chỉ tỏ vẻ khinh miệt khi các tướng tá đang ngồi xử mình.”
Và lúc bị đưa ra hành quyết, Lý Quý Chung viết:
“Ông bị trói chặt vào cột hành quyết và lúc sắp sửa bị bịt mắt, muốn được nhìn tận mắt cuộc hành quyết mình. Nhưng người thi hành án giải thich với ông rằng luật lệ không được phép cho họ làm khác. Người ta vẫn bịt mắt ông và một loạt súng kết liễu mạng sống của người thứ ba và là em út trong dòng họ Ngô từ sau cuộc đảo chính 1-11-1963.
Bài tường thuật của tôi nhấn mạnh hai điểm: Ông Cẩn không sợ cái chết và tỏ vẻ khinh khi những người xử ông ta tại tòa.”
(Nguyễn Văn Lục, Đọc "Nhật ký của im lặng" của Lý Quý Chung, DCVOnline)
Theo tôi, bài báo tuy tóm tắt. Nhưng ý nghĩa phiên tòa xử cũng như ý nghĩa cái chết đã nói lên đủ về con người ông Cẩn. Dư luận có thể coi thường ông, coi ông là lãnh chúa độc ác, là hung thần! Nhưng trước lúc đối diện với cái chết can đảm của ông buộc mọi người phải nghĩ lại về ông.
Tin và bình luận trên báo Chính Luận ngày 12-5-1964, “Báo chí Thủ đô và hai vụ hành quyết Cẩn, Đông”
“Khoảng 18 giờ 27 phút, im lặng đến tức tưởi, đòi hỏi sự phựt đứt ngay trong khoảng 1,2 tích tắc.
10 Quân Cảnh (QC) ngắm vào cái đích là tử tội. 10 QC đều biến thành 10 cái tượng, không nhúc nhích. Lần đầu tiên trong đời, tôi nghe được sự im lặng lạ lùng ma quái. Sân banh sắp chuyển theo một cái chớp mắt của thời gian để chính thức biến thành một pháp trường. Vẻ nhợt nhạt của kiếp sống lởn vởn trong không khí. Khẩu lệnh “bắn” được phát ra, những tiếng nổ giòn mang ý nghĩa của những tiếng giải thoát che lấp một phần nào sự trống phẳng.
Tử tội ngoẹo đầu sang phía tay mặt, gục xuống, bàn tay trái có máu, cả thân hình sụm đổ, nhưng bị giữ lại nửa vời thân trên tách khỏi cái cột nhô về trước. Máu túa ra nhiễu ở ống quần chân mặt, đỏ tươi. Hai chân tử tội gập khúc nơi đầu gối, xoạng ra, cong vòng.
Sự im lặng biến thành ghê rợn, nghe rõ tiếng quần áo của tử tội phất theo gió thổi. Người chỉ huy 10 quân cảnh, chạy tới bên tử tội – bây giờ là một tử thi – dùng súng ngắn bắn phát thi ân vào đầu. Bác sĩ khám nghiệm và xác nhận một cái chết, chiếc cáng trắng mới rồi đưa tử tội từ khung cửa sổ có song sắt lại được mang ra.
Người ta tháo dây trói cho tử tội, thật lúng túng, sau nhờ bàn tay chuyên môn của ông Phối mới xong. Thây tử tội được đặt trên cáng, đưa trở vào khung cửa sổ có song sắt, đóng lại.”
Và ông (Chu Tử) kết:
“Người đã chết, không còn là “người” nữa nên hết là kẻ thù của chúng ta. Chúng ta, đều muốn gạt họ qua một bên, gửi vào quên lãng, nhưng cần phải có một thời gian và một thực tế đẹp đẽ để niềm vui xóa nhòa những nghẹn ngào bi thảm hôm qua.”
Một vài nhận xét của báo Chính Luận ngày 12-4-64.
Không hiểu nhà văn Chu Tử có vạch đầu gối ra để nói chuyện hay không. Chỉ biết ông công nhận cho Cẩn một điểm là Cẩn đã biết chết tương đối đàng hoàng. Ông cho rằng
“trong lúc sắp bắn Cẩn giữ sự im lặng hoàn toàn đến nỗi các ký giả ngồi cách xa hơn 10 thước còn nghe thấy hơi thở, mồ hôi của Cẩn và tiếng gió thổi phành phạch vào ống quần trắng của Cẩn.”
Cảm tưởng chung của ông là:
“Cẩn chết là đáng vô cùng, nhưng án tử hình là một án không nên tồn tại trên thế gian. Trên thế gian này, không ai nên nhân danh công lý hoặc nhân danh cách mạng, hoặc nhân danh nền văn minh nhân loại để tỗ chức “lễ” bắn một người khác dù là một kẻ trọng tội chồng chất trăm nghìn tội ác trên đầu như Cẩn.”
Tôi không thấy cần thiết phải có thêm ý kiến gì nữa, vì tờ Chính Luận khi đăng lại bài viết của Chu Tử, họ đã có ý kiến rồi.
Bài viết của Ký giả Nam Đình, báo Thần Chung
Sau đây là bài viết của ký giả kỳ cựu Nam Đinh, báo Thần Chung. Một tờ báo bị ông Diệm đóng cửa ngay giai doạn 1954, vì nghi ngờ là tờ báo thiên Cộng. Ông viết:
“Tưởng chừng mình đau khổ vì tinh thần hơn ai hết, khi phải chịu đựng 9 năm trời: từ 1954, Diệm hạ lệnh đóng cửa Thần Chung. Tội gì?”
Ông đã tham dự các phiên tòa xử 42 trí thức bị mật vụ tra tấn và khảo của, ngày 23-6-64. Vụ 13 nhân viên cao cấp trong ngành Cảnh sát Quốc gia, Chúa nhật 18, thứ hai 19-7-65.
Và dĩ nhiên, trong đó có vụ xử Ngô Đình Cẩn mà nhà báo Nam Đình đã đặt ra với rất nhiều tiêu đề như: Cả ba anh em Diệm Cẩm, Nhu chết hụt nhiều lần. Diệm thoát chết hồi 1945. Ai cho Cẩn hay giờ hành quyết. 12 giờ trưa mà Cẩn không đói. Khi hay tin không được ân xá. 10 phút riêng với cha Thí. Tên Thánh của Cẩn. Tại sao bịt mắt tôi. Những chi tiết. Ngô Đình Cẩn trối trước giờ chết.
Với một giọng văn có sự miệt thị và hận oán không cần thiết đối với một tử tội. Tôi không phục tư cách hành nghề của ký giả Nam Đình. Ông thiếu hẳn một tấm lòng cũng như thiếu hẳn tư cách của một ký giả chuyên nghiệp trước một tử tội. Tôi xin trích dẫn:
“Trong vụ xử bắn Ngô Đình Cẩn, ngoài những người có trách nhiệm như ông Chưởng lý Nguyễn Văn Đức, Thừa phát lại Lâm Văn Sáu, bác sĩ Phúc, đại tá Bùi, Quân vụ Thị trấn ngoài ra còn có ông Lục Sự, Cha Thí (Linh mục của Trung tâm cải huấn Chí Hòa) Và ông Trung tá Quản đốc Trung tâm cải huấn và hai hiến binh. Tất cả đám người này đã lên lầu ba, nơi Cẩn bị giam giữ. Ông Cẩn đã nằm nghe ông Lục sự đọc bản án tử hình, có lẽ đến hơn 10 phút. Sau bản án tử hình, tới sắc luật Quốc Trưởng bác đơn ân xá.
Khi nghe ông Lục sự đọc tới đây, Ông Cẩn đưa tay lên kệ, lấy xâu chuỗi mà người Thiên Chúa giáo thường có.
Ông Cẩn đọc kinh lần chuỗi
Ông Lục sự hỏi:
Ông có tuyên bố gì không?
Cẩn nói:
Tôi cầu nguyện cho Quốc Gia Việt Nam… Tôi sẵn sàng chết.”
“Súng nổ đúng 6 giờ 20 phút. Chùa Bửu Liên? Sự ngẫu nhiên là Hòa thượng đọc kinh lúc Ba Cụt Lê Quang Vinh lên gươm máy Cần Thơ, lại là Hòa thượng ở chùa Bửu Liên. Một sự tình cờ khác là Ngô Đình Cẩn day mặt về hướng chùa Bửu Liên lúc thọ hình. Cũng như Diệm Nhu được đưa xác vào nhà thương St Paul gần chùa Xá Lợi!”
(Trích Ký giả Nam Đinh, Báo Thần Chung, 9-5-64)

Linh mục Thí làm lễ rửa tội cho Ngô Đình Cẩn trước giờ ra pháp trường. Nguồn: http://kienthuc.net.vn

Gớm thay tâm địa con người và nghề làm chính trị thật nhiều nỗi oan khiên!
Ngoài ra còn có khoảng có 200 người đến tham dự như gia đình bị can, đại diện báo chí, đại diện cho đủ mọi thành phần xã hội, cho cả người xấu lẫn kẻ tốt, đại diện cho công lý của giới quan tòa, thẩm phán, luật sư. Đại diện cho dư luận báo chí cũng có. Như Chu Tử ở trên, như Nam Đình, như Lý Quý Chung. Đại diện cho giới Phật tử cũng có, giới tu sĩ công giáo cũng không thiếu.
200 người này có thể còn đại diện cho những người không có mặt, đang ngồi ở nhà theo dõi trên báo chí truyền thanh như trường họp Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh và cả Trí Quang.
Ai là người cảm thấy mình vô tội? Chu Tử ở trên cũng nhận xét là Ngô Đình Cẩn chết đàng hoàng? Thế nào là chết đàng hoàng? Sống không đàng hòang mà chết lại đàng hoàng? Rồi một lần nữa vừa kết án, vừa quân tử tàu khuyên: “không ai nên nhân danh công lý hay cách mạng … để rồi tổ chức “lễ” bắn một người khác như Ngô Đình Cẩn.”
Đọc bài tường thuật trực tiếp trên báo chí thời 1964, tôi liên tưởng đến câu chuyện "Chém treo ngành" của nhà văn Nguyễn Tuân, ghi lại khung cảnh xử chém những người tử tù của chính quyền thực đân Pháp.
Mặc dầu sự liên tưởng này không nhất thiết có cùng một nội dung và hoàn cảnh. Nhưng bầu khí tử thần lảng vảng đâu đó thì ở đâu cũng vậy, thời nào cũng thế.
Chết trở thành một thông điệp của người chết để lại cho người còn sống.
Nhưng nó đều giống nhau ở cái không khí lành lạnh, mùi tử khí luẩn quẩn đâu đây với sự thê lương và im lặng ma quái.
Và trong cái giờ phút ấy, những kẻ gây ra “tội ác” ấy nghĩ gì? Ai là người đưa Ngô Đình Cẩn đến chỗ chết? Câu hỏi ấy chỉ quan trọng đối với người còn sống, nhưng lại trở thành vô nghĩa đối với người chết.
Tôi là người còn sống nên tôi có dịp dở lại đọc tờ báo Lập Trường, cơ quan tranh đấu của Hội Đồng Nhân dân cứu quốc ngoài Huế có bài viết sặc mùi sắt máu: Đồng bào Huế và Trung Việt nghĩ sao? Đặng Sỹ ra tòa tại Sài gòn? Theo bài báo: Lúc xử ông Ngô Đình Cẩn, tất cả các báo Sài Gòn đều viết rằng nhân dân đã xử ông Cẩn trước khi tòa án xử. Đối với Đặng Sĩ cũng vậy, nhân dân đã xử rồi chứ đâu có tòa án cách mạng? (Báo Lập Trường, tháng 6, 1964)
Như vậy cái chết của Ngô Đình Cẩn là do Nhân dân xử mà những vị như ông Thẩm Phán Lê Văn Thụ chỉ là người thừa hành ý của nhân đân? Rồi luật sư biện hộ như Võ Văn Quan hẳn là biết rõ công việc mình làm và đã làm một cách hết mình, cô đơn trong những ngày xử án?
Chính cái Hội Đồng ấy gián tiếp giết Phan Quang Đông, rồi Ngô Đình Cẩn...
Sức mạnh của Hội đồng ấy sau trở thành như một chính phủ “ma”. Chính Hội đồng ấy phủ nhận chính phủ Tam đầu chế (ông Minh- ông Khánh-ông Khiêm). Và rồi ông Minh và ông Oánh phải lục tục kéo nhau ra Huế để thỉnh ý Hội Đồng. Hội Đồng với quyền lực thương thuyết tay đôi với chính phủ. Tại nhiều tỉnh miền Trung, nhiều Hội Đồng đã được thiết lập và người ta đã chứng kiến cái tấn bi hài kịch của những người dư đảng Cần lao ra trình diện ông Tỉnh trưởng. Ông Tỉnh trưởng lại chuyển qua Hội Đồng xét xử.
Cho nên, cái chết của Ngô Đình Cẩn chung cuộc là để thỏa mãn lòng hận thù được ngụy trang đưới cái được gọi là Nhân dân? Nhưng Nhân dân là ai mới được?
Trong lời khởi đầu bài biện hộ, luật sư Quan đã nói:
“Tôi khởi đầu với một giọng trầm trầm: “ Bên ngoài là cả một biển hận thù. Hận thù đối với chế độ đã bị lật đổ, hận thù đối với bị can Ngô Đình Cẩn, đã thành là biểu tượng của Ngô triều. Tòa chưa xử, nhưng đã có nhiều người nhứt quyết đòi cho được một bản án tử hình, đòi mạng phải đền mạng, nợ máu phải trả bằng máu.”
(Võ Văn Quan, Ibid. Ngay Nay, số 108, tháng 2-3-93)
Theo tôi, giết ông Ngô Đình Cẩn là một cái chêt vô ích cho mọi phía. Cùng lắm chỉ thỏa mãn lòng hận thù của một thiểu số người
Tuy nhiên, theo tôi, giữa cái chết của anh em ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và cái chết của ông Ngô Đình Cẩn có những sự khác biệt nên nói ra.
Trong vụ thảm sát anh em ông Diệm, ông Nhu. Cho đến giờ này, mọi người trong cuộc đều không nhìn nhận là kẻ trực tiếp ra lệnh giết ông Diệm. Để tránh né, hay chạy tội, không một tướng lãnh nào đã nhận giết ông Diệm, ngay cả cái người được coi là chủ mưu với nhiều bằng cớ như Dương Văn Minh. Dương Văn Minh đã tìm cách đổ lên đầu Nguyễn Văn Thiệu! Nguyễn Văn Thiệu đã phản ứng một cách quyết liệt và chê trách Dương Văn Minh hèn. Phần đông, cách hay nhất là cứ đổ thừa cho ông Cabot Lodge hay người Mỹ đã chủ mưu giết anh em ông Ngô Đình Diệm.
Dương Văn Minh là một Pilate của thời đại, rửa tay để như thể không dính vào máu cho đến lúc ông chết.
Theo tôi, ông Diệm và ông Nhu bị giết chết không phải vì căm thù mà vì cái tai họa phát xuất từ chính họ, bởi vì họ còn quá mạnh. Tướng lãnh quá sợ hãi hai người họ, nhất là ông Nhu. Vì thế cách tốt nhất là trừ hậu họa để tránh một sự lật ngược thế cờ như hồi 1960 thì số phận họ sẽ ra sao?
Cái chết của hai anh em ông Diệm là để trừ hậu họa mà người Mỹ có thể bất lực không can thiệp được hoặc gián tiếp chấp nhận!
Mới đây, nhà báo kỳ cựu Nguyễn Ngọc Linh vừa mới qua đời, tờ Người Việt đã cho phát lại 6 buổi phỏng vấn ông Nguyễn Ngọc Linh. Trong đó ông Nguyễn Ngọc Linh cũng nhìn nhận tướng tá VNCH chẳng ra cái gì cả, vừa không có uy, vừa không có kiến thức nên bắt buộc vì sợ anh em ông Diệm mà họ phải trừ khử. Và sau đó, họ kéo VNCH xuống hố.
Ông cũng thẳng thắn nhìn nhận, cá nhân ông thương ông Diệm lắm. Ông Diệm nói tiếng Anh lưu loát, nhưng khi phải tiếp xúc với giới chức Mỹ cao cấp, bao giờ ông Diệm cũng sai ông Võ Văn Hải kêu ông Nguyễn Ngọc Linh vào làm thông dịch viên.
Cái chết của ông Ngô Đình Cẩn khác hẳn. Nó là một vụ án chính trị, có khuôn khổ nằm trong luật 4-64, ký ngày 18 tháng 2, năm 1964 dưới thời Nguyễn Khánh, cho thiết lập tòa án Cách mạng. Luật này có hiệu lực hồi tố. Số phận của ông Cẩn nằm trong tay Nguyễn Khánh và cái được gọi là Nhân dân. Mà nhân đân ở đây cụ thể là Hội Đồng Nhân dân cách mạng ngoài Huế và một số tỉnh miền Trung như Nha Trang, Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Ngãi. Rồi cái Hội Đồng ấy đổi ra cứu quốc do Trí Quang và một số giáo sư đại học Huế chủ trì.
Sở dĩ, tôi có thể nói như thế, vì sau này, trong vụ Biến Động miền Trung, TT Trí Quang đích thân đị gặp Ls Vũ Văn Quan để nhờ ông biện hộ cho gà nhà như trường hợp bác sĩ Mẫn, Thị trưởng Đà Nẵng.
Cái chết của hai anh em ông Diệm-Nhu, thú thực tôi không học được nhiều điều và nó cũng chẳng ám ảnh tôi bao nhiêu. Cùng lắm là sự coi thường về sự bất tài của một số tướng lãnh vì họ làm đảo chánh xong mà không biết họ phải làm gì, ngoài chuyện ngoan ngoãn vâng lời người Mỹ.
Cái chết của ông Ngô Đình Cẩn trái lại dạy cho tôi nhiều điều về chính trị đảo điên, về tình đời, về thái độ ứng xử trong hoàn cảnh cay nghiệt. Và điều quan trọng hơn cả, nếu ông không chịu án tử hình thì thái độ của tôi đối với ông không mấy tốt đẹp cũng như thiếu sự trân trọng. Chính cái chết ấy làm cho ông trở thành cao cả và cho thấy cái nhỏ nhen và tầm thường của nhiều người.
Thái độ của ông cũng như phong cách của ông trước tòa án cũng như khi đối diện với cái chết làm cho ông lớn lên và cho những kẻ thù ông ngồi đó nhỏ đi, ti tiện hơn.
Luật sư Quan viết lại trong lần gặp gỡ cuối cùng trước khi ông Cẩn bị hành quyết ở sân phía sau khám Chí Hòa. Ông Cẩn và luật sư đã nói chuyện với nhau trong ba tiếng đồng hồ và ông Cẩn đã tâm sự rất nhiều. Và lần đầu tiên, ông tiết lộ bí mật ông giữ kín từ trước. Ông cho biết rằng bà Trần Trung Dung có thuật lại với ông là trước khi ông bị đem ra xét xử, “người ta” (ông vẫn còn dấu không tiết lộ đích danh) hứa nếu ông bằng lòng chuyển cho “người ta” số tiền mấy triệu đô la trong trương mục của ông ta tại Thụy Sĩ, ông sẽ được phi cơ lén đưa qua Singapore sống tự do. Nhưng ông ta biết người đó là kẻ lật lọng, nếu ông lầm tin chuyển tiền cho họ thì sẽ bị cảnh “tiền mất tật còn” nên ông cương quyết từ chối. Về sau, nhân dịp một linh mục tới khám Chí Hòa cùng với ông làm lễ, ông ký giấy ủy quyền cho dòng tu của linh mục ấy lãnh số tiền kể trên, tờ ủy quyền được giấu trong một quyển kinh sách của vị linh mục. Ông tâm sự: “Tôi thà dâng cho Chúa chứ không chịu làm giầu thêm cho họ!”
Sau đó, luật sư kết luận:
“Ra về, tôi không khỏi thầm phục con người can trường, biết cái chết thê thảm đang kề trong gang tấc mà vẫn giữ được phong thái thản nhiên, ung dung suốt mấy tiếng đồng hồ ngồi trò chuyện với tôi.”
(Võ Văn Quan, ibid., Báo Ngày Nay, số 110, tháng 5-93)
Thật vậy, trong những phiên tòa biện hộ. Ls Quan tiết lộ là ông Cẩn chỉ nhờ ông có một điều- một điều mà ông Quan không muốn nói. Đó là:
“Những nhân chứng này là những người tráo trở, lật lọng, quý tòa không thể tin vào lời nói của họ được. Họ đã từng khúm núm xưng con với những người của chế độ cũ. Họ đã từng nịnh bợ đủ cách để xin xỏ ân huệ. Ngày xưa, họ lòn cúi bao nhiêu thì sau cuộc đảo chánh, họ càng a dua, mạt sát, chà đạp những người cũ để khỏa lấp quá khứ gian nịnh và lập công với chế độ mới.”
(Võ Văn Quan, ibid., Báo Ngày Nay, số 110, tháng 5-93)
Có ai còn nhớ câu xin xỏ: "Cụ cho con lên Tướng" của phản tướng nào không?
Luật sư Võ Văn Quan cũng liên hệ trường hợp của ông Ngô Đình Cẩn về những kẻ lật lọng giúp liên tưởng đến trường hợp César thời cổ La Mã. Brutus vốn là một tướng thân cận của César được coi như một đứa con nuôi và được César nâng đỡ hết mình. Nhưng đến ngày phe nghịch làm phảm mưu sát và đâm túi bụi César, ông chống đỡ mãnh liệt. Nhưng khi nhìn thấy Brutus cũng có mặt trong đám sát nhân. César than: Cho đến con mà cũng phản cha nữa sao? Rồi lấy vạt áo bào che mặt, mặc cho những tên sát nhân chém giết!
Trong số những tướng lãnh của nền Đệ Nhất cộng Hòa, đã có bao nhiêu Brutus?
Nhưng mặt khác, có một nhận xét không thể thiếu được là chính thái độ đối diện với cái chết bên bờ tử sinh là một thái độ của Ngô Đình Cẩn mà ít ai sánh bằng theo như lời kể lại của luật sư Vũ Văn Quan!
Và luật sư Võ Văn Quan, người nhận công việc bẽ bàng là biện hộ cho bị can đã viết trong vụ Đặng Sĩ như sau về việc TT Trí Quang không ra làm chứng trước tòa:
“Trong thơ, TT tuyên bố sẵn sàng ra tòa khai rõ về những việc đã xảy ra tại miền Trung, vì chính ông lãnh đạo cuộc tranh đấu ấy. Dĩ nhiên, tòa không mời TT Trí Quang ra tòa làm nhân chứng để ông không dùng phiên tòa làm dĩễn đàn chính trị. Còn truy tố ông, “ họ” dám thì đã làm từ lâu. Chưa kể đằng sau tòa án, còn có "những sách nhiễu tiền bạc bỉ ổi, những thủ đoạn lừa lọc gian manh".
(Võ Văn Quan, Luật sư Nghề hay Nghiệp, số 100, tháng 5-92)
Đây là tâm sự trao đổi giữa ông Ngô Đình Cẩn và luật sự Quan sau khi Tòa tuyên án tử hình:
“Trước khi vô phòng để nghị án, Tòa cho ông Cẩn nói lời chót. Ông điềm nhiên chậm rãi nói rằng mình vô tội, không có quyền hành, không ra lệnh cho các công an viên làm sự phi pháp. Ông không van xin cầu khẩn gì hết. Ông biết cái luật chơi tàn nhẫn của chính trị và ông có vẻ điềm tĩnh chấp nhận, mặc dầu đối tượng cuộc chơi là chính sinh mạng của mình.
Sau khi nghị án tới khuya. (Tôi đoán rằng họ kéo dài thời gian để nghỉ ngơi, ăn uống) Tòa trở ra tuyên xử tử hình.
Ông Cẩn lặng thinh.
Tôi vịn vai ông an ủi.
Hai quân cảnh bước tới kéo ông đi, khi đến gần tới cửa, bất thần ông ngoái lại nhìn tôi, đôi mắt bỗng nhiên bi thiết sau cặp kính trắng. Lần đầu tiên cũng là lần duy nhứt, tôi bắt gặp cái nhìn chới với, bi thiết như vậy nơi ông Cẩn.
Cho tới bây giờ cái nhìn đó vẫn còn ám ảnh tôi mỗi khi nhớ lại vụ án.”
(Võ Văn Quan, Luật sư Nghề hay Nghiệp, ibid., số 110, tháng 5, 1992)

Kết luận

Ông Ngô Đình Cẩn (1964). Nguồn: OntheNet

Nếu cần thiết phải nói thêm điều gì về cái án tử hình của ông Ngô Đình Cẩn thì tôi chỉ có vài dòng: đây là cái chết của một con dê tế thần. Ông chết cho gia đình ông. Cho sự đạo đức thánh thiện dễ tin người của anh ông Ngô Đình Diệm. Cho sự lú lẫn không phân biệt đạo với đời của một Ngô Đình Thục, cho thói lăng loàn của bà Ngô Đình Nhu.
Và hẳn là ông cũng chết cho những kẻ ám hại ông như Dương Văn Minh- Trần Thiện Khiêm- Đỗ Mậu- Nguyễn Khánh- Tôn Thất Đính vốn chỉ là bọn tướng thiếu đức, thiếu tài.
Tôi mượn lời Chúa như một lối giãi bày biểu tượng trong ngày chịu nạn thay cho ông Diệm và chế độ của ông:
“Pópulé méus, quid fécit tibi? Aut in quo contristávit te? Respónde mihi.”
(Dân ta hỡi, Ta đã làm gì cho ngươi điều gi? Hãy trả lời cho Ta hay.)
“Quia edúxi te de térra Aegýpti: Parasti Crúcem Salvatsritúo.”
(Phải chăng vì ta đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai Cập. Nên vì thế Thập ác ngươi đã dành cho Đấng cứu ngươi).
Tôi rung động khi viết những dòng này.
Và chúng ta đừng quên, ngay một kẻ đã làm theo lệnh của bọn tướng lãnh trên, số phận anh ta cũng không hơn gì: Thiếu tá Nguyễn Văn Nhung được coi là người đã ra tay trực tiếp giết hai hai anh em TT. Diệm.
Cuối cùng ông cũng bị chết thảm – thêm một con dê tế thần- ngay khi Nguyễn Khánh làm chỉnh lý. Đây là cảnh giết người để bịt miệng!!!
Xin mượn lời sách Thánh như sau:
Hôm nay trong nhà thờ đạo công giáo của tuần thánh, người ta nghe tiếng thày sáu đọc sách Thánh như sau:
“Khi ấy Chúa bảo hai ông MaiSen và Aaron ở Ai Cập rằng, tháng này là tháng thứ nhất trong năm, tháng thứ nhất trong mọi tháng. Hãy bảo cho toàn dân biết rằng: Ngày thứ 10 trong tháng này, mỗi họ và mỗi nhà phải chọn một con chiên. Nếu trong nhà không có đủ người để ăn, thì hãy mời thêm những người lân cận nhất, đủ để ăn. Phải chọn con chiên đực, trong sạch được một năm. Các người cũng có thể thay thế bằng một con dê đủ điều kiện như thế. Hãy giữ nó cho đến ngày 14 tháng này và tất cả dân chúng Israel sẽ hiến dâng nó vào buổi chiều. Hãy lấy máu nó bôi lên hai cánh cửa và xà ngang của nhà có người ăn. Trong đêm ấy, hãy ăn thịt nướng với bánh không men và rau rừng. Đừng ăn sống hoặc luộc, nhưng nướng. Hãy ăn tất cả đầu, chân và bộ lòng. Không được để thừa đến sáng mai. Nếu còn thừa thì hãy đốt đi. Đây là cách thức phải giữ trong khi ăn: Hãy thắt lưng, chân xỏ giầy, và tay cầm gậy. Hãy ăn vội vã vì là ngày vượt qua, ngày Chúa vượt qua.”
(Theo Cựu ước, lễ ăn thịt chiên là để kỷ niệm ngày giải phóng dân tộc Israel ra khỏi ách nô lệ Ai cập. Đằng khác, việc hiến dâng còn mang ý nghĩa như một sự cứu chuộc: Mọi tội ác của người ta sẽ đổ lên đầu con chiên đực trong sạch kia và khi con vật được thiêu hủy đi, nó mang theo luôn tất cả những vết tích nhơ bẩn đó).

Nguyễn Văn Lục

http://www.dcvonline.net/

__________________

Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p2)



Trong bản Tự thuật của TGM Ngô Đình Thục cho thấy những người em của ông như Ngô Đình Luyện, rất giỏi, được gửi sang Pháp từ năm 12 tuổi. Học lớp sáu xong nhảy lớp bốn. Hết lớp bốn nhảy lớp 2... Bao giờ cũng đứng đầu lớp. Đỗ tú tài xong được nhận vào trường lớn, École Centrale Paris (ECP).

Người trước dư luận!
Và bản thân TGM Ngô Đình Thục cũng du học Roma rồi Paris. Và là một trong bốn giám mục tiên khởi, thứ ba ở Việt Nam lúc bấy giờ. Trong bản Tự thuật đó, TGM Thục không đả động gì đến việc học của Ngô Đình Nhu cũng như của chính ông.
(“Autobiographie de Mgr Pierre Martin Ngo Đinh Thục”, Archevêque de Hue, tài liệu trích trong Le Doctrinaire).
Trong “Curriculum Vitae De Mgr. Pierre Martin Ngô-Dinh-Thuc” viết năm 1978 khi ông 80 tuổi có đoạn
TGM Ngô Đình Thục (1897-1984) (LIFE)
“Mes études à Rome, du point de vue humain, étaient une suite de succès. Je raflais tous les prix: docteur en philosophie, en théologie, en droit canonique – avec mention très bien ou bien – puis la licence d’enseignement à la Sorbonne. Je rentrais à Hué, en 1927. Nommé professeur d’abord chez les Frères vietnamiens fondés par Mgr. Allys, puis au Grand-séminaire, puis proviseur du collège de la Providence rồi theo lệnh của Toà tahsnh Vatican về làm Đại biện Tông đồ tại Vĩnh Long.
J’étais le troisième vietnamien appelé à l’épiscopat. Le premier fut Mgr. J.B. Nguyễn-bá Tòng, cochinchinois, nommé à Phát-diêm au Tonkin. Le second, Mgr. Cân – mon frère spirituel puisque fils spirituel de Mgr. Allys — occupait à Vinh-long un vicariat apostolique détaché du grand Vicariat de Saigon dont l’évêque était le saint Mgr. Dumortier. On était en l’année 1938.”

(Nguồn: “Curriculum Vitae De Mgr. Pierre Martin Ngô-Dinh-Thuc”, 13 tháng Hai, 1978. Trích trong “EINSICHT, Jahrang 28 Sonder Mommer, trang 14-17, April 1998)
“Việc học của tôi tại Rome từ quan điểm của con người xem ra là một loạt các thành công. Tôi đoạt được mọi giải: tiến sĩ triết học, thần học, giáo luật — với hạng danh dự hoặc rất giỏi — và chứng chỉ giảng dạy tại đại học Sorbonne. Tôi về Huế vào năm 1927. Trước tiên được bổ nhiệm là giáo sư trong hàng ngũ tu sĩ Việt Nam do Đức Ông Allys thành lập. Allys, sau đó tại Đại Chủng Viện, rồi là hiệu trưởng của trường Providence, từ đó tôi đã theo lênh Tòa Thánh để nhận chức đại diện tông tòa của Vĩnh Long.
Tôi là người Việt thứ ba được phong Giám mục. Đầu tiên là Mgr. J.B. Nguyễn Bá Tòng, người miền Nam, phong nhậm ở Phát Diệm tại Bắc Kỳ. Thứ hai, Đức Ông. Cân – anh tinh thần của tôi là con trai tinh thần của Đức Ông Allys – thuộc giáo phận tông tòa Vĩnh Long tách ra khỏi Giáo phận Sài Gòn lớn mà giám mục là thánh Giám Mục. Dumortier. Đó là năm 1938.”
Người ta có thể biết đến Ngô Đình Thục nhiều hơn trong một tài liệu của Charles Keith nhan đề: “Annam Uplifted: The First Vietnamese Catholic Bishop and the Birth of a national Church, 1919-1945” đã đề cao 4 vị giám mục tiên khởi. Những vụ phong chức này từ 1933-1945, họ là những vị giám mục đầy quyền lực và làm vinh danh cho dân công giáo bản địa theo đúng tinh thần của Vatican muốn bản địa hóa giáo hội địa phương và biến giáo hôi Việt Nam dần dần đi đến chỗ tự quản.
(Charles Keith, “The first Vietnamese Catholic. Bishop and the Birth of a National Church, 1919-1945”. Bản dịch của Phạm Minh Ngọc, đăng trên diến đàn Talawas.org)
Đó là một vinh dự chung cho Giáo Hội Việt Nam, riêng cho TGM Ngô Đình Thục. Sau khi thụ phong, ông cùng với Ngô Đình Diệm- Ngô Đình Nhu đi nhiều nơi và người ta được biết chút gì về ông Diệm là kể từ thời kỳ này. Ngay khi sang Mỹ sau này, nhân vật Ngô Đình Thục nổi trội hơn cả người em đi cùng là Ngô Đình Diệm.
Sau này, người cháu gọi ông bằng Bác, TGM Nguyễn văn Thuận, còn có được vinh dự lớn lao hơn là Hồng Y ở Vatican, chức vụ cạo trọng bậc nhất trong giáo triều và nhận được sự ưu ái đặc biệt của GH Phao Lô đệ nhị. Không thể dễ dàng gì trong một dòng họ lại có được những người con suất sắc như vậy.
Ngô Đinh Nhu, thông minh sắc sảo, có đầu óc, có kiến thức nhiều, hiểu biết lịch sử, quá tự tin, nhưng lại nặng phần lý thuyết, nặng về kế hoạch. Tính tình lạnh nhạt, bướng bỉnh và không gây được cảm tình cũng như sự tín cẩn của các đồng chí.
Cả hai anh em đều nặng tình gia đình. Và nếu đủ cương quyết, ông Ngô Đình Nhu có thể tránh được tai họa cho cả hai anh em. Cái khuyết điểm lớn nhất làm tan nát sự nghiệp của ông là nể vợ. Bà Nhu là cái cớ cho dân chúng oán ghét gia đinh họ Ngô. Ông Đoàn Thêm đã nhận xét một cách chí lí là người Việt Nam chưa đủ trưởng thành để có thể chấp nhận một người như bà Nhu. Nhất là những lời tuyên bố ngạo mạn của bà trong vụ Phật giáo như đổ thêm dầu vào lửa.
Ông Ngô Đinh Thục thời trẻ tương đối được. Nhưng dần dần ông trở thành cái đinh cho người đời nguyền rủa và xa lánh chế độ. Đối với nội bộ giáo quyền, Giám mục Thục đã gây ra những mâu thuẫn đến lời qua tiếng lại đối với các giám mục, linh mục, tu sĩ di cư ngay từ năm 1957.
Trong một lá thư, dài ba trang đánh máy, đề ngày 29 tháng tư, 1957, viết tại Vĩnh Long, GM Thục đã lên tiếng mạnh mẽ, tố cáo đích danh nhiều linh mục vi phạm tiền bạc di cư và phê phán các trường di cư mở trường bừa bãi mà không có bằng cấp gì cả. Trong khi người di cư cho rằng họ đã hết lòng với cụ. Ngược lại Gm Thục cho thấy người di cư nhiều khi đã phản bội cụ.
Xin trích nguyên văn: “Có giám mục đã xin Bộ đòi bắt giam ông cố vấn. Lính một Giám mục khác đánh Quốc gia ở Rừng Sát. Tôi sẵn sàng trả lời mọi thắc mắc của các Đấng ấy.” (Tài liệu photocopy riêng của Nguyễn văn Trung).
Theo tôi, những phê phán của gm Thục có thể đúng nhiều phần. Nếu có điều gì là hình thức phê phán đã tạo ra những chia rẽ trong nội bộ công giáo. Có những sự kiện khác như lính của một GM đánh lại Quốc Gia sự thực thế nào không rõ. Về lẽ đời, ông cũng chạy theo quyền lực, cao ngạo và thiếu hiểu biết với Phật Giáo. Chung quanh ông phần lớn là những kẻ xu nịnh làm ông mất cảnh giác. Tóm lại, ông không đủ sáng suốt để tách biệt Đạo với Đời, để đạo dẫm chân lên đời. Ông thật sự là kẻ đào mồ chôn chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa.
Edward Miller cũng viết: “Diem at first seemed to follow Thuc into the priesthood.”
(Edward Miller, Misalliance. Ngo Đinh Diem The United States and the Fate of South Viet Nam, 2013, trang 24)
Chỉ rất tiếc là những lá thư này không được TGM Nguyễn Văn Thuận công khai hóa cho mọi người biết và không biết hiện nay trao cho ai giữ?
Thắc mắc còn lại là vì lý do gì Dương Văn Minh quyết định dứt khóat, từ chối ân xá cho Ngô Đình Cẩn? Lý do đơn giản nhất là họ bị thất sủng, bị nghi ngờ và không được trọng dụng.
Theo Edward Miller, khởi đầu của âm mưu đảo chánh chỉ gồm ba sĩ quan là: Minh, Đôn và Kim. Sau cuộc bạo lọan năm 1960 bất thành, cả ba đều cảm thấy bị sỉ nhục vì bị điều tra xem có đính dáng trong vụ đảo chánh bất thành năm 1960 hay không.
“The resentment that Don, Minh and Kim felt for the Ngo brothers had been smoldering since 1960, when they had endured the humiliation of being investigated on suspicion of involvement in the paratroopers’ failed coup.”
(Edward Miller. ibid., trang 282)
Lý do cá nhân thứ hai theo Ls Lâm Lễ Trinh phỏng vấn đại tá Nguyễn văn Y, đại tá Y, cho biết Dương Văn Minh khi đánh nhau với Bình Xuyên, có bắt được phuy đựng vàng. Ông đã dấu nhẹm. Nhưng cả hai đại tá Nguyễn Văn Y và Bộ Trưởng Quốc Phòng Trần Trung Dung đều có tập hồ sơ này. Đại tá Y trình ông Diệm tập hồ sơ, Ông Diệm sai đại tá Y đốt tập tài liệu trước mặt ông để xóa trắng tội cho DVM. Tuy vậy, Dương Văn Minh vẫn hận ông Diệm và tìm dịp trả thù.
Cuối cùng Ngô Đình Cẩn bị kết án tử hình như mọi người đều biết.
Việc tìm hiểu về con người và các hoạt động của ông Ngô Đình Cẩn không thể không tìm hiểu những tài liệu về phía người Mỹ. Nhưng thật không dễ để tìm một tài liệu của người Mỹ viết liên quan đến ông Cẩn. Xin nêu vài tác giả quen thuộc viết xa gần đến ông Cẩn như Stanley Karnow, 1997 với Viet Nam. A History, Ellen J.Hammer, 1987 với A death in November, Seth Jacob, 2006 với America’s Miracle Man in Viet Nam, Mc Allister, James, 2008 Only Religions Count in Viet Nam: Thich Trí Quang and the Viet Nam war. Langguth A .J., 2000 Our Viet Nam và Miller, Edward, 2013, Missalliance, Ngo Đinh Diem, The United States, and the Fate of South Viet Nam.
Mặc dù với số tài liệu ít ỏi đó, chúng tôi cũng cố gắng thu nhặt những nét chính yếu liên quan đến ông Cẩn.
Người viết xin chọn một vài ý tưởng của Ellen J. Hammer trong A death in november liên quan đến cuộc đảo chánh tháng 11. Theo E. Hammer:
“Cẩn là người em út còn ở lại Huế, ông sống ẩn dật không ai biết đến và không giữ một chức vụ chính thức nào của chính quyền. Chức vụ của ông chỉ là cố vấn về các đảng phái chính trị. Nhưng người ta lại biết đến ông rất nhiều trong việc chỉ đạo các hoạt động về chính trị và quân sự của chế độ ở các tỉnh miền Trung và ông có tiếng là tàn bạo.”
(Ellen J. Hammer, A Death in November, 1987, trang 78)
Ông Cẩn là người thực tiễn, không viển vông, với một trí thông minh biết kỳ vọng nào là chính đáng, một người Quốc gia cực đoan với một bản năng chính trị thực tiễn, với sự am hiểu biết xử dụng quyền lực trong tay.
Bằng chứng là ông đã dẹp tan các nhóm Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng khuynh đảo ở miền Trung. Họ không thể hoạt động gì ở miền Trung khi Cẩn còn ở đó. Ông có mạng lưới chính trị và tình báo riêng. Nhưng những phúc trình của người của ông Cẩn không phải lúc nào cũng ăn khớp với những thông tin nhận được ở Sài Gòn của ông Nhu. Nói cho đúng người của ông Cẩn không tài giỏi như ông nghĩ, vì thế, họ đã bị CIA xâm nhập.
Quyền bính chính trị địa phương, bề ngoài được trao vào tay Hồ Đắc Khương-một sản phẩm đặc sản Huế. Một dòng dõi cha truyền con nối từ đời ông đến đời cha trong triều đình Huế. Dòng họ Hồ Đắc Khương lại có người đã nương nhờ cửa Phật như một tín chỉ ở một địa phương có đông tín đồ Phật giáo.
Phải chăng phải có bấy nhiêu yếu tố mới ngồi vững ở Huế được? Ông Cẩn có đủ các yếu tố ấy, nhưng lại thiếu một yếu tố căn bản nhất là ông không phải Phật giáo. Nhưng luôn luôn đứng phía sau trợ giúp Phật giáo.
Nhận định về vụ biến động Phật giáo miền Trung sẽ giúp hiểu rõ thêm về quan điểm, lập trường của ông Ngô Đình Cẩn như thế nào.
Khi Viện trưởng Cao Văn Luận tiếp xúc với ông Cẩn để cho biết về việc các giáo sư và sinh viên Huế phản đối vụ mừng kỷ niệm 25 năm thụ phong Giám mục của Ngô Đình Thục. Ông Cẩn tỏ ra bất lực trước một người anh Giám Mục mỗi ngày đẩy xa Ngô Đình Cẩn ra khỏi vòng quyền lực ở Huế. Cẩn bị cô lập vì ông anh thiếu hiểu biết, cao ngạo đến lố bịch. Có văn thư yêu cầu các Lm giáo xứ yêu cầu họ đi ủng hộ Tổng thống.
Ông Thục càng muốn củng cố quyền lực cho người em, ông càng làm hại em mình.
Nói về Cao Văn Luận thì không có ông, Viện đại học Huế không có cơ hội phát triển mau chóng như thế. Viện Đại Học này, nó do ông Diệm xây dựng nên. Nó như một ước mơ thầm kín, một hoài bão của riêng ông cũng như một niềm hãnh diện của cả dân Huế. Vậy mà sau này, chính nơi đây đã xuất phát như một ngòi nổ tạo thành cơn bão chính trị lật đổ người đã khai sinh ra nó.
Ellen Hammer đã nhận xét về Cẩn dựa theo Lm Cao Văn Luận, mặc dầu Cẩn không có học lực cao và cũng chắc chắn không phải là loại người tôn trọng dân chủ. Nhưng ông lại tỏ ra hiểu biết và gần dân chúng hơn bất cứ người anh em nào của gia đình Ngô Đình Diệm.
Cẩn than phiền về thái độ không hiểu biết của TGM Ngô Đình Thục không phân biệt được phần đạo, phần đời. Cẩn nói với Lm Viện trưởng, “But my hands are tied. My brother, the archbishop doesn’t listen to me anymore. You had better go to Saigon and tell President Diem.” (Ellen J. Hammer, ibid., trang 105)
Cái trớ trêu ở đây là Ngô Đình Thục sau 23 năm làm giám mục ở Vĩnh Long, và Vatican đã đủ thông minh để không bao giờ có ý định đề cử Ngô Đình Thục về cai quản Sài gòn, lý do là Vatican thừa hiểu biết muốn tách biệt thế quyền và thần quyền. Không lẽ có một Tổng Thống công giáo đứng đầu lại có thêm một TGM đứng đầu là bào đệ của Tổng Thống thì coi sao được?
Việc chọn TGM Nguyễn Văn Bình là người ôn hòa đã cân bằng được mối tương quan thế quyền và thần quyền. Không bao giờ TGM Bình tỏ ra thân cận với chính quyền Ngô Đình Diệm một cách lộ liễu. Ông tránh né ra vào Dinh Độc Lập và ông tránh né cả những buổi tiếp tân nếu có thể. Và luôn luôn giữ một khoảng cách vừa đủ.
Việc đưa Ngô Đình Thục ra Huế, xa trung tâm quyền lực Sài Gòn và có lẽ người vui mầng nhất hẳn là Ngô Đình Nhu? Ông Diệm có thể chịu đựng người anh với quyền huynh thế phụ, nhưng ông Nhu ít đủ kiên nhẫn, ít lắm ông Nhu khỏi bị quấy rầy bởi sự ra vô dinh Độc Lập của người anh làm giám mục cứ can thiệp vào các việc của chính quyền một cách khôn ngoan khờ khạo, tiến cử người này, tiến cử người kia, ngay cả loại bỏ người nào mà ông không ưa. Ông là người tu trì, không thông việc đời, không hiểu thế thái nhân tinh của một người không hề biết việc đời. Nhưng lại chỉ sẵn sàng nghe theo những lời xàm tấu của kẻ xu nịnh.
Tôi từng đã nhiều cơ hội có nhận xét về khuôn mặt chán chường, không vui lộ ra trên nét mặt ông Nhu mỗi khi ông phải tham dự những buổi lễ do ông Ngô Đình Thục chủ tế tại Đại Học Đà Lạt những năm 1960. Ngoảnh đi ngoảnh lại, ông đã biến mất tiêu, không hề ăn một cái bánh ngọt, uống một ly rượu chúc mừng xum xoe như các hàng bộ trưởng, dân biểu nghị sĩ. Ông Thục đi tới đâu thi có một đàn ruồi bay theo, cờ xí đón tiếp từ phi trường, gấp gáp trải đá vội vã con đường dẫn tới Viện Đại Học.
Khi ra nhậm chức ở Huế, tướng Trần Văn Đôn là người huy động quân đội đón tiếp một Giám Mục công giáo. Thật đúng là tên nịnh thần và phản thần mà bà Ngô Đinh Thị Hiệp ghét nhất trong hàng tướng lãnh.
(Thật ra không phải đây là lần đầu tiên, giám mục Thục ra Huế. Khi còn là linh mục, ông đã là giáo sư Đại chủng Viện Huế trước khi được bổ nhiệm làm giám mục Vĩnh Long. Sau này, khi hai ông Diệm-Nhu đã bị ám hại, GM Thục một lần nữa còn vận động Giáo Hoàng Phao Lồ Đệ VI xin chính quyền mới cho ông quay trở về Huế như cũ. Nhưng việc bất thành)
Nhưng cả Vatican và ông Nhu đã không ngờ được sự hiện diện của Ngô Đình Thục tại Huế lại là một tai họa cho cả công giáo đến chính quyền đến thế! Huế với một gia tài lịch sử quan quyền, một truyền thống khép kín với bất cứ sự xâm nhập quyền bính nào từ bên ngoài vào đến bệnh hoạn. Làm sao họ có thể chấp nhận được bóng dáng một tổng giám mục quyền bính, cao ngạo bao trùm lên bầu trời xứ Huế? Tôi đã ở Huế, tôi thấu hiểu tâm tình người dân xứ này, nghèo đến không có gì để nghèo hơn. Ruộng đất, kỹ nghệ hầu như không có. Họ sống bằng sự tặng dữ của những người con xứ Huế ra đi làm ăn gửi về và đồng lương công chức, quân nhân tại chỗ.
Nhưng Huế lúc nào cũng ẩn nhẫn, nhưng sôi sục như bếp chấu âm ỉ qua cái bề ngoài thầm lặng.
Sau này hầu hết các biến động chính trị đều xuất phát từ nơi đây.
Cho nên, chỉ có một người duy nhất là Ngô Đình Cẩn có thể ở Huế và nắm được tình hình mà người ta gọi là Cậu Cẩn. Một tên gọi có thể là thân mến, nhưng nhiều phần coi thường. Và ít khi Cậu Cẩn bước ra khỏi Huế, nhưng cái gì Cậu cũng biết, như nắm trong lòng bàn tay và ông đã đã cai quản Huế qua đám tay chân bộ hạ ông ở Huế với bàn tay sắt bọc nhung.
Nhờ cái bàn tay bọc nhung ấy, Cẩn cũng sẵn sàng giúp đỡ trùng tu chùa chiền, các khuôn hội, đi lại thân tình và cả bao che cho Trí Quang.
Nhưng có lẽ điều sai lầm duy nhất trong đời làm chính trị của Ngô Đình Cẩn có thể là đã đánh giá sai lầm Trí Quang.
Hammer kết luận, “ But Cẩn had underestimated Tri Quang.
Ngày 8 tháng 5 Trí Quang ra khỏi bóng tối ẩn nhẫn trong nhiều năm dưới mái chùa Từ Đàm và trở thành nhân vật chính trị và thế lực chính trị hàng đầu ở Việt Nam.
Khi Thục ra Huế, Cẩn vẫn tin rằng ông vẫn có thể là người của tình thế, là một đầu cầu giữa chính quyền và Phật giáo.
Nhận xét về các hoạt động của Ngô Đình Cẩn tại Huế
Những hoạt động của ông Ngô Đình Cẩn là hoạt động tình báo, phản tình báo không nằm trong khuôn khổ của tổ chức hành chánh. Nó là những hoạt động bí mật. Mười Hương gọi mật vụ Ngô Đình Cẩn là một “siêu tổ chức” không có “bộ máy ngụy” nào có thể so sánh bằng.
(Nguyễn Thị Ngọc Hải, “Trần Quốc Hương — Người chỉ huy tình báo”, nxb Tổng Hợp TP HCM, trang 122)
Chính vì tính cách bí mật của nó, hoạt động bên ngoài guồng máy chính quyền đã tạo ra nhiều tai tiếng xấu, nhiều dư luận đồn thổi. Bởi lẽ việc bắt người thường là bắt cóc, không có trát tòa, không xử án và việc bắt giam vô thời hạn.
Ngay trong ngành phản gián, mật vụ Ngô Đình Cẩn cũng bị các cơ quan bạn như An Ninh Quân Đội, Lực lượng Đặc Biệt, Sở Nghiên cứu chính trị nghi ngờ. Mặc dầu mỗi ngành có lãnh vực hoạt động khác nhau. Sở tình báo của Trần Kim Tuyến chú trọng đến vấn đề nội an như dò xét các thành phần đối lập. Cơ quan an ninh của Đỗ Mậu lo an ninh quân đội. Lực lượng đặc biệt của Lê Quang Tung gồm một trung đoàn có nhiệm vụ chính yếu là bảo vệ Tổng Thống.
Trong bài phỏng vấn của ông Lâm Lễ Trinh với Dương Văn Hiếu, Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt miền Trung, nhan đề “Trưởng đoàn Dương Văn Hiếu lên tiếng”, ông Dương Văn Hiếu tiết lộ như sau:
“Đại tá Nguyễn văn Y, Tổng Giám Đốc Công An cũng như Trần Kim Tuyến (SNCCTXH), Lê Quang Tung (Lực Lượng Đặc Biệt) và Đỗ Mậu (An Ninh Quân Đội) đều không ưa tôi.”
(Lâm Lễ Trinh, “Thức Tỉnh, Quốc Gia và Cộng Sản”, trong bài Trưởng Đoàn Dương Văn Hiếu lên tiếng, trang 425)
(Dương Văn Hiếu, sinh quán ở Hà Nam, Bắc Việt trong một gia đình trung lưu, học trường Louis Pasteur, có bằng Diplome d`Études primaires supérieures Trung học Đệ Nhất cấp). Lập gia đình năm 1948, bố vợ là bác sĩ Nguyễn Văn Tam, cộng tác với gm Lê Hữu Từ, Phát Diệm. Sau Hiệp Định Genève vào Nam, ông được cụ Võ Như Nguyện, Giám đốc công an Trung Phần tuyển vào ngành công an, giữ chức Trưởng Ban Khai thác Nha CA-CS Trung nguyên, Trung Phần. Rồi trở thành Trưởng Ty Công an tỉnh Thừa Thiên và đô thị Huế. Năm 1957 được ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Đình Cẩn và ông đại biểu chính phủ Hồ Đắc Khương giới thiệu nhiệt tình với Tổng Thống Diệm. Năm 1958, ông được bổ nhiệm Trưởng Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung (TĐCTĐBMT) làm việc tại Sài Gòn.
Mặc dầu ông Dương Văn Hiếu không nói rõ sự không ưa kia. Nhưng chúng ta vẫn có thể tìm hiểu được như sau:
Có nhiều bộ phận tình báo, mặc dầu được phân chia vùng hoạt động hoặc phạm vi công tác. Nhưng vẫn có sự tròng chéo và dẫm chân lên nhau. Chẳng hạn, ông Dương Văn Hiếu, Trưởng Đoàn công tác vốn hoạt động ở miền Trung. Nhưng sau được điều động vào miền Nam hoạt động, trụ sở nằm trong trại Lê Văn Duyệt. Ông vào Nam làm việc theo chỉ thị của ông Cẩn. Nhưng khi cần bá cáo điều gì, ông chỉ chính thức bá cáo cho ông Ngô Đình Nhu, hoặc khi có chuyện hệ trọng, ông gặp thẳng Tổng Thông Diệm. Thỉnh thoảng ông mới gửi vài bản sao bá cáo cho ông Cẩn mà thôi.
Mặc dầu hoạt động của Dương Văn Hiếu bí mật và độc lập. Nhưng về mặt hành chánh, ông lại ăn lương theo ngạch Cảnh sát Quốc Gia nên mọi chi phí hoạt động như lương bổng, thực phẩm, tiền vãng phán đều do Phòng Hành Chánh của Tổng Nha Công an cung cấp theo hệ thống, qua Phòng Hành Chánh của Phụ tá Nguyễn Thành đài thọ. Vì chính thức, về mật hành chánh, ông vẫn thuộc Ty Công An Thừa Thiên. Vì có những công tác đặc biệt mà Tổng Nha không cung cấp phương tiện được như tiền thì qua ông Võ văn Hải với tiền lấy từ Quỹ đen của Tổng Thống để đài thọ. Số tiền này không quan trọng chỉ như một thứ tiền thưởng hoặc khích lệ. Xét như thế về mặt Hành Chánh, ông Nguyễn Văn Y làm sao không nghi ngại được? Ông Dương Văn Hiếu cũng tiết lộ cho thấy, Đoàn công tác của ông không nhận một đồng nào của ông Cẩn cả.
Vì cách thức hoạt động như vậy, vì không có một chức vụ gì công khai như giám đốc chẳng hạn- nên để có chỗ ăn ở, Dương Văn Hiếu phải tự bỏ tiền ra mua một căn nhà ở cư Xá Công Lý làm nhà riêng. Và vì đã không làm việc trực tiếp với ông Cẩn nên sau này cũng bị chính ông Cẩn nghi ngờ là quá thân cận với Sài Gòn và gây khó dễ không ít cho ông cũng như Phạm Thu Đường, chánh văn phòng cố vấn Nhu, ngay cả Nguyễn Văn Minh, bí thư của ông Cẩn cũng bị nghi ngờ. (Lâm Lễ Trinh, ibid., trang 437)
Về phía Tòa án cách Mạng, sau này đưa Dương Văn Hiếu ra tòa và coi ông là người chủ mưu và trách nhiệm nhiều vụ bắt bớ, ám sát người là do lệnh Ngô Đình Cẩn, theo tôi, là rất hàm hồ. Chẳng hạn các vụ ám sát người đối lập như Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp và Vũ Tam Anh. Về điểm này, Dương Văn Hiếu trả lời ls Lâm Lễ Trinh là “chúng tôi không liên hệ. Chúng tôi không có trách nhiệm truy nã các phần tử đối lập.” Cũng theo Dương Văn Hiếu, sau này được biết công việc này do Thẩm Sát viên Khưu Văn Hai và đồng bọn trong Ban Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc Tổng Nha Công An của đại tá Nguyễn Văn Y đã giết Nguyễn Bảo Toàn và Tạ Chí Diệp.
Tuy nhiên, điều tôi ngạc nhiên đến không tin nổi là Dương Văn Hiếu tiết lộ cho biết toàn thể nhân viên của ông chỉ có 8 nhân viên và hai thơ ký đánh máy. Với 8 nhân viên này mà có thể thao túng bắt trọn mạng lưới gián điệp của cộng sản?
Và nếu có biết ít nhiều thì đều có thành kiến xấu về ông. Trong đó người ta nói nhiều đến Đoàn công tác mật vụ của Ngô Đình Cẩn.
Nhưng tôi có thể khẳng định ngay chính người dân Huế cũng thật sự không biết các công tác và công việc cụ thể của Đoàn này như thế nào? Những mặt hoạt động tích cực có hiệu quả thì dân chúng không được biết.
Chẳng hạn, Đoàn Công Tác Đặc biệt miền Trung đã phá vỡ trong vòng hai năm toàn bộ hệ thống điệp báo Khu 5 và từ đó lan ra các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Trị, Bình Thuận, Quy Nhơn.
Thành tích này là lớn lắm mà một quân đoàn chưa chắc đã bình định nổi.
Ngay Trần Văn Đôn, một thời là tướng Quân đoàn I ở miền Trung cũng hầu như không biết gì về hoạt động chống Cộng hữu hiệu của Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung. Ông đánh giá rất thấp khả năng của ông Cẩn về ngăn chặn tình báo cộng sản gài người trong guồng máy Quốc gia. Điều đó chứng tỏ ở vị trí Tư lệnh Quân đoàn I lúc đó, ông không hay biết gì về Mật vụ ông Cẩn đối phó với cộng sản.
Điều đó cho chúng ta một bài học sau đây: Những sĩ quan thời Tây để lại thường thiếu tinh thần Quốc gia, thiếu lý tưởng chống cộng sản.
Họ chỉ là loại sĩ quan văn phòng, làm cảnh và bất tài, kém cỏi sau khi lật đổ chế độ Đệ Nhất cộng hòa. Họ không có viễn kiến chính trị, không có kế hoạch, không có chương trình và tỏ ra hoàn toàn bất lực, thụ động ngay từ những ngày đầu sau 1963.
Một ông tướng mà còn ngu muội như thế nói chi đến dân thường.

Nguyễn Văn Lục

http://www.dcvonline.net/

_____________________

Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p3)


Người dân Huế được sống an bình, đi lại tự do khắp nơi, tối ngủ không sợ cộng sản đến bắt cóc mang đi.
Chỉ riêng các thôn xã ở phía Nam có hàng 4000 các nhân viên các cấp ở xã ấp đã bị Việt cộng bắt cóc, thủ tiêu. Các cô thày giáo ngày về xã dạy học, tối đến phải quay về quận lỵ ngủ cho an toàn.
Thế nhưng, sự hưởng thụ một thôn quê thanh bình, thành phố Huế mộng mơ hầu như thể là chuyện đương nhiên phải là như thế như từ trên trời rơi xuống.
Tôi xin nói thẳng, không có ông Ngô Đình Cẩn và đám Mật vụ của ông, Huế và các vùng phụ cận sẽ không có được những ngày thanh bình, yên ổn. Không ai có cơ hội nghĩ tới công lao của ông Cẩn cả.
Bốn năm sau khi loại trừ ông Cẩn (1964), 1968 Huế trở thành nạn nhân của chính mình với một cuộc thảm sát đẫm máu người dân Huế vô tội. 9 hầm hay 10 hầm giam giữ vài chục người cán bộ cộng sản ngoan cố bì thế nào được với con số cả 5000 người dân Huế vô tội bị trói tay, chôn sống, bổ cuốc vào đầu chôn ở các hố chôn tập thể lên đến vài trăm người mỗi nơi?
Ai trách nhiệm thảm cảnh này, nếu không phải là chính người Huế “giết” hay tiếp tay giết người Huế?
Tôi đã viết bài Huế Mậu Thân, miền đất nhiều bất hạnh. Những oan hồn uổng tử của Huế sau nửa thế kỷ đã thành tro bụi, chả biết xác chết có còn nguyên vẹn để nghe kinh tụng niệm cho họ để mong họ chóng được siêu thoát chăng?
Mười Hương, người đứng đầu tình báo cộng sản đã phải viết:
“Thế nhưng, hồi ấy (ám chỉ thời Pháp những năm 1940) cũng không đen tối bằng sau này những năm 1957-1959.”
Mười Hương nói về sự "thâm hiểm" của Ngô Đình Cẩn như sau:
“Khi tôi bị bắt, ban đầu nó bảo, chúng tôi mời ông về, không dám dùng đến chữ bắt. Nó khai thác đề tài Quốc Gia rất dữ để chống Cộng. Nó vẫn nói những người kháng chiến là những người có công với đất nước.”
(Hoàng Hải Vân- Tấn Tú, “Tướng Tình báo chiến lược. Người Thầy”, Báo Thanh Niên, số 200. Thứ ba, 26-11-2002)
Nhưng dư luận đồn thổi thì lại nhiều, thêu dệt cũng không thiếu. Từ một chuyện nhỏ có thể xé ra một chuyện lớn.
Trường hợp cụ thể như Vương Hồng Sển có dịp thăm Huế trong một phái đoàn của Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Ông ta có dịp ăn một bữa cơm tối tại nhà ông Cẩn. Nhân đó ông có dịp trông thấy một con hổ và một số chim chóc trong vườn. Khi về, ông viết phóng lên là Cẩn có cả một sở thú. Thật sự, đó chỉ là một con hổ con lạc mẹ do binh sĩ đi hành quân bắt được đem về làm quà cho ông Cẩn. Ông nuôi nó như nuôi một con mèo, cho ăn cơm mỗi ngày.
Tư cách của Vương Hồng Sển chỉ đọc mà không vui. Ông ta còn toa rập với Nguyễn Đắc Xuân bịa chuyện ông Ngô Đình Diệm ăn cắp nghiên mực của vua Tự Đức.
(Nguyễn Văn Lục, “Lịch sử còn đó”. Nguyễn Đắc Xuân, Vương Hồng Sển và chiếc nghiên mực của vua Tự Đức, trang 215)
Tôi lưu ý đặc biệt đến cách tuyển chọn và dùng người của ông Cẩn.
Ông ít học, nhưng bản năng chính trị giúp ông chọn người khá kỹ càng. Những người được ông chọn mà chức vụ cũng không lấy gì làm lớn gì cũng qua giới thiệu kỹ càng, tin cẩn mà tiêu chuẩn thứ nhất là có lý tưởng Quốc Gia chống Cộng, thứ hai là sự trung thành hầu như tuyệt đối và thứ ba hầu hết là theo đạo công giáo.
Những tiêu chuẩn này không nhất thiết là quy luật chung hay có giá trị khách quan cho bây giờ. Nhưng ở thời điểm khai sinh ra nền Cộng Hoà, ở phạm vi hỗ trợ chính phủ, người ta cần những người đồng chí hơn là người có bằng cấp hay học vị chuyên môn.
Và qua thử thách 9 năm làm việc tận tụy cho chế độ, những người này đều cho thấy họ thật xứng đáng. Tôi xin nêu một vài người tiêu biểu nhất như Phan Quang Đông, Nguyễn văn Minh, Dương Văn Hiếu, Nguyễn Văn Châu, Phạm Thư Đường, Lê Quang Tung, v.v...
Phan Quang Đông đã chết hiên ngang như thế nào với lá thư nhắn gửi vợ con vài giờ trước khi bị xử bắn. Sau này đến lượt Ngô Đình Cẩn cũng một thái độ như vậy. Không có gì khó hiểu cả, bởi vì họ có một lý tưởng và phải chăng vì họ sống có xác tín?
Thứ hai về nguyên tắc làm việc của ông Ngô Đình Cẩn dựa trên một thứ bản năng chính trị. Cái bản năng ấy được phát triển một cách cùng cực trước tiên là để tự vệ sống còn và sau là bằng mọi phương tiện tiêu diệt kẻ thù trong cái tương quan sống-còn giữa đôi bên.
Nó có thể không chấp nê đến lý thuyết, đến ngay cả pháp luật. Nó hành xử không theo một thủ tục hành chánh, hay thủ tục pháp lý trong việc bắt người, giam người, tra khảo. Đây là mặt yếu của các Đoàn Công tác mật vụ đứng về mặt chính quyền. Một chính quyền dù coi việc chống Cộng là hàng đầu không thể cho phép các tổ chức mật vụ bắt người, giam giữ không xét xử, ngay cả tra tấn, v.v..
Chính vì thế đi đến chỗ lạm dụng như trong vụ án xử gián điệp miền Trung mà nhiều phần có kẻ bị bắt oan, bị xử hoặc tù tội một cách oan uổng.
Nhưng về mặt hiệu quả của các cơ quan này thì thật không thể chối cãi được. Nó chẳng thua bất cứ cơ quan nào của ngoại quốc như F.B.I., S.D.E. của Pháp, K.G.B của Nga hay ngành đặc biệt N.D.B ( Ngành đặc biệt- The Spécial branch), trong đó có chiến dịch Phượng Hoàng (Phoenix program 1968-1975). Chiến dịch Phượng Hoàng là tình báo và ám sát bí mật! Đã bao nhiêu người dân vô tội bị chết oan? Tại sao người Mỹ không lên tiếng? Tại sao kết tội mình ông Cẩn và đám mật vụ?
Theo số liệu, trong 8 năm, số viên chức Việt Nam Cộng hoà bị Việt cộng ám hại lên tới con số 33.052 người. Số liệu trong Chiến dịch Phượng Hoàng đưa tới kết quả có 22.013 hồi chánh, 24.843 bị bắt. 26.369 bị giết. Tổng cộng tất cả là 73.225. (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “Chiến dịch Phượng Hoàng”)
Nào ai thực sụ biết được trong số 26.369 Việt Cộng bị giết, có bao nhiêu thường dân bị chết oan?
Chứng từ tự thuật của một người bị bắt cóc, bị giam ở trại Lê Văn Duyệt từ 1961 đến sau cuộc cách mạng 1963
Bài Tự thuật sau đây, không đề tên tác giả, được trích từ tờ Tiếng Nói Dân Tộc nhan đề, “Dưới chế độ Mật vụ Ngô Triều”. Bị bắt cóc, bị giam một thời gian, được đưa về thăm gia đình. Mà không được nói hiện mình ở đâu? Làm gì?


SAIGON 1969 – Photo by larsdh – Trại Lê Văn Duyệt

“Chiều hôm đó, cũng như bao nhiêu chiều khác, mãn giờ làm việc tôi thoát lên xe đạp ra khỏi sở. Bỗng một người cỡi xe gắn máy chạy đến bên tôi và nói, “Xin lỗi ông cho tôi hỏi thăm một chuyện.” Tưởng có chuyện gì cần mình, tôi dừng xe lại. Anh đi xe gắn máy trình thẻ Công an cho tôi xem và mời tôi về bót có chuyện cần.
Thế là tôi bắt buộc phải đạp xe đi theo người ấy, và một người nữa chạy Lambretta sau lưng tôi.
Đây, trại Lê Văn Duyệt
Trại “Lê Văn Duyệt” là căn cứ của mật vụ thuộc Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung đóng tại Biệt Khu Thủ Đô mà mãi đến sau ngày Cách mạng người ta mới biết. Vì bọn Mật vụ tổ chức vô cùng bí mật, ngoài thì cũng cửa sắt kín mít, lính gác không khác nào một trại lính. Cũng chào cờ, cũng đá banh vui chơi, cũng ca hát, ai ai đi qua cũng tưởng là một trại lính ở, chớ đâu dè đó là nơi bọn Mật vụ của Ngô triều để giam hãm những kẻ nào dám cả gan chống lại bọn chúng..
Ngủ có divan hoặc giường sắt hay ghế bố, mỗi người một cái, có mùng, có tấm đắp đàng hoàng: có giờ có giấc. Ăn uống cũng khá hơn chế độ thầu. Có câu lạc bộ, có phòng đọc sách, có sân banh giải trí, có bàn ping pong.
Về tinh thần, có Ban Văn nghệ của trại: tập tành nhạc, kịch, tuồng cải lương, lâu lâu vài tuần trình diễn cho anh em giải trí. Thường xuyên mỗi buổi chiều có một máy hát, máy quay cải lương cũ mèm, nhưng nghe cũng đỡ buồn. Tối thứ bảy nghe truyền thanh tuồng cải lương Sài gòn hay xem chớp bóng. (…)
“Ăn Cơm tiều”, một danh từ được khai sinh trong trại Lê Văn Duyệt.
Không biết bên chánh quyền dự chi về ăn uống một người bao nhiêu mà ở trại Lê Văn Duyệt thì chúng tôi được 5$50 tiền chợ, mỗi trại viên, mỗi ngày.
Có một Ban cấp dưỡng (cũng anh em trại viên) lo lắng miếng ăn miếng uống cho anh em. Đáng lý chúng tôi mỗi người ăn 5$50, nhưng chúng tôi khai “cơm tiều”, nghĩa là một mâm bốn phần ăn, chúng tôi ăn năm người. Phần dư ra 5$50 thay nhau lãnh. Ăn sáng 1$. Nếu nhịn thì mỗi tháng cũng được thêm 30$.
Ở tù mà cũng lãnh lương. Ở tù mà cũng đi nghỉ phép.
Ở tù sau đó được về thăm nhà. Có nhiều anh em ở tù lâu, cuối tuần được nghỉ phép, chiều thứ bảy về, sáng thư hai vô. Hoặc có anh về hằng đêm 5 giờ 30 sau giờ làm việc ra cổng, sáng 7 giờ 30 trở về ở…tù. (…)
Ở tù vợ đẻ, thật là họa vô đơn chí.
Những người của một thời đã qua.”
Theo tôi, nhà tù như trại Lê Văn Duyệt của ông Ngô Đình Cẩn là có một không hai trên thế giới này. Đó là “nhà tù không song sắt”. Sau này cũng có những trại cải huấn, nhưng không thể nào so sánh với trại tù Lê Văn Duyệt được.
Tuy nhiên, theo Dư Văn Chất,
“đối với tù nhân ngoan cố nhất định không chuyển hướng — như trường hợp Đặng An — thì bị giam trong sà lim. Hoặc sau này Đặng An bị chuyển ra nhốt ở Mang Cá nhỏ, một trại giam biệt lập trung chuyển. Từ trại này có thể được đưa lên Chín Hầm và bị bỏ đói. Hoặc tệ hơn nữa thả trôi sông hoặc thả biển. Người giám thị trại giam Mang cá lúc bấy giờ là Phạm Mại.”
(Đây là phần viết thêm của Dư Văn Chất, dạng photocopy. Sau ba năm ông đã viết: Nhà văn bất đắc dĩ. Trong đó còn viết: Người cộng sản sợ người cộng sản)

Lý do thành lập Đoàn công tác Đặc biệt miền Trung
Cho đến nay, sau hơn nửa thế kỷ, nhiều người vẫn đánh giá sai lầm về công tác của Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung của ông Cẩn. Họ cho rằng Đoàn công tác có nhiệm vụ đàn áp đân chúng, đàn áp tất cả những ai là trí thức như bác sĩ, luật sư, giáo sư, viết báo, thương gia như trường hợp 42 người ra làm nhân chứng vào ngày thứ tư 26-6-1964.
Bài báo của ký giả Nam Đình ghi như sau:
“Theo bản cáo trạng thì 42 người trên đã bị tra tấn, khảo của bởi mật vụ của Dương Văn Hiếu. Đám mật vụ này gồm Thái Đen, Thiện Dzai và Phan Khanh.
Nhưng mỗi lần ông Nguyễn Văn Đức, công tố viên, sau khi nhân chứng khai rồi, quay ra hỏi Dương Văn Hiếu: Bị can có nhìn nhận không? Và câu trả lời của các bị can là:
— Hoàn toàn không có.”
Theo nhà báo Nam Đình, báo Thần Chung thì “tội ác của đám Mật vụ Dương Văn Hiếu không bút mực nào tả cho hết được.”
Thế nhưng, theo như một nạn nhân bị bắt đưa vào trại Lê văn Duyệt vừa được trích dẫn ở trên thì các người bị giam ở trại Lê Văn Duyệt có một cuộc sống ở tù thật thoải mái? Chữ không bút nào tả hết của nhà báo Nam Đình phải được áp dụng trong trường hợp nào?
Theo như mục đích lúc thành lập Đoàn Công Tác Đặc biệt miền Trung, Ông Cẩn muốn có chính sách chiêu hồi các cán binh cộng sản.. Đây là một lối thoát cho cán binh cộng sản, tạo điều kiện cho họ về hợp tác với chính phủ Quốc gia.
Vì thế, ông Cẩn vào đầu năm 1957, ông đã đề nghị lên TT. Diệm xin cho ông thực hiện chính sách ông gọi là: “Chiêu mời và xử dụng những người kháng chiến cũ.”
Sau khi được ông Diệm đồng ý, ông Cẩn đã giao cho ông Dương Văn Hiếu thành lập Đoàn Công tác để thực hiện chính sách trên.
Nhờ được áp dụng một cách triệt để, thông minh và khôn khéo, chính sách chẳng những bắt trọn gói toàn bộ cán bộ Việt Minh tại miền Trung.
Chính sách ấy còn khuyến dụ được một số người bỏ Đảng về làm việc cho phía Quốc Gia. Đó là trường hợp ông Lê Chân, tên thật là Nguyễn Đình Chơn, vốn là một Thành ủy viên tỉnh Thừa Thiên. Sau khi chuyển hướng, ông Chơn đã được bổ nhiệm làm Thiếu tá Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt Gia Định. Cho đến ngay 30-4-1975, ông bị đi học tập cải tạo như mọi người, sau đó, ông đã được sang Hoa Kỳ theo diện H.O.
Các đồng chí cũ của ông đã yêu cầu ông viết lại trong Tập Hồi Ký của các cựu tù nhân Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung. Ông đã từ chối vì tuổi già muốn được yên thân.
Trong kỳ ba của bài viết này, chúng tôi sẽ có dịp trình bày Tập Hồi ký của các cán binh cộng sản cho thấy họ đã nghĩ gì về Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung.
Bài nói chuyện của ông Ngô Đình Cẩn vào dịp tết năm 1958
Có thể đây là một tài liệu hiếm và đặc biệt, bởi vì người nói chuyện là ông Ngô Đình Cẩn. Ông Cẩn là người ít xuất hiện ra bên ngoài, cũng ít tiếp xúc với ai. Ngay những dịp quan trọng như ngày Quốc Khánh hoặc các dịp lễ lạc khác thường cũng không có mặt ông Cẩn. Tôi tự hỏi, không biết có lần nào ông đã vào Sài Gòn để gặp TT Diệm hay chưa? Chắc là chưa. Ngay cả những buổi lễ tại địa phương như Huế cũng không có mặt ông.
Việc tiếp xúc với người ngoại quốc lại càng hiếm hoi vì ông tránh né không tiếp. Lý do tại sao thì không rõ? Ngôn ngữ bất đồng chăng? Mặc cảm ít học?
Trong một bài báo do Trà Mi dịch, đăng trên DCVOnline.net, ngày 26 tháng 3,2015 có ghi lại việc tiếp lãnh sự quán Mỹ — ông John Helble (1961-1964). Lãnh sự Mỹ phải kiên nhẫn chờ đợi 3 tháng để được ông Cẩn tiếp kiến. Và đây là một trường hợp khá đặc biệt và hi hữu.
DCVOnline.net cũng cho trích đăng lại một điện tín đánh đi từ Huế như sau:
“In telegram 714, November 4, 4.58 p.m the Department agreed that Can should not be harmed and that We should make every effort to get him and his mother, if necessary, out of country soonest, using our own facilities if this would expedite their departure.” ( ibid, Central Files, POL 26 S VIET)

Điện tín từ Lãnh sự Mỹ ở Huế gởi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, 4/11/1963
(Trà Mi, “Trưòng hợp kỳ lạ của ông Ngô Đình Cẩn”, DCVOnline.net, March 26, 2015)

Dầu vậy cũng không cứu được mạng Ngô Đình Cẩn.
Trong bài trả lời phỏng vấn của ông cựu lãnh sự John Helble với Thomas F. Conlon ngày 5-4-1996 có một ghi đoạn quan trọng lời phát biểu của ông cựu Lãnh sự như sau:
“Nó cho thấy Mỹ đã liên can vào vấn đề này bằng cách bắt ông Cẩn, giao ông lại cho chính quyền mới của Việt Nam, và sau đó “đứng yên” trong khi ông bị kết án và xử tử. Điều này với người Mỹ là hành động, chính sách sai lầm của Mỹ – hoặc một sự kết hợp của cả hai, hành động và không hành động.”
(Trà Mi, ibid., March 26, 2015)
Nói cho cùng cả người Mỹ lẫn bọn tướng lãnh cần một con vật tế thần trong lúc này.
Một người tránh giao thiệp như vậy. Vậy mà vào dịp Tết 1958, đích thân ông Cẩn đã đến thăm số cán bộ bị bắt đã chuyển hướng hoặc chưa chuyển hướng tại lao xá Ty Công an Thừa Thiên.
Đề tài ông nói với họ là “Chính sách chiêu mời và sử dụng những người kháng chiến cũ.”
Đại ý ông nói với họ như sau:
“Bữa ni tôi đến thăm anh em vì được ông Hiếu, Trưởng Ty báo cáo: tất cả anh em ở đây đều là những người có thiện chí, có tinh thần Quốc Gia cao. Tôi đến với mục đích “chiêu mời” anh em về với Quốc Gia, về hợp tác với chúng tôi, chúng ta cùng nhau xây dựng một chế độ thực sự tự do, thực sự dân chủ. Cùng nhau cải tổ cái xã hội lạc hậu chồng chất quá nhiều bất công lưu cữ từ bao đời nay, cho nhân ân, đã được độc lập rồi, phải được sông xứng đáng với vị thế của mình, của một con người hoàn toàn độc lập, tự do và hạnh phúc. (…) Còn anh em, vì qúa hăng say với lý tưởng Độc lập, Tự do nên đã không nhận ra chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa phi dân tộc. ( … ) Tôi mong anh em suy nghĩ cho thật kỹ, thật thấu đáo để mà dứt bỏ cái đuôi cộng sản đã bị người ta lừa bịp ráp vô cho anh em. Rồi mình cùng nhau chiến đấu, chiến đấu cật lực, xây dựng một đất nước thực sự Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ. Một xã hội thực sự công bằng, hạnh phúc, ấm no cho chính mình, vợ con, xóm làng, dân tộc mình thụ hưởng.”
(Bản photocopy, tài liệu của Nguyễn Văn Trung trong tập “Vẽ đường cho hươu chạy”)
Thành tích của Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung
“Theo Mười Hương, ông nhận được hai điện báo: Khu Năm tổn thất nặng, địch bắt bớ mạnh, có chỗ trắng 100%, nhiều nơi trắng 80-90%. Xứ ủy bảo phải cắt liên lạc với Trung Ương để bảo đảm an toàn. (…) Có những nơi đồng chí ta bị bắt gần hết. Quân của Cẩn phá căn cứ Ba Lòng tàn khốc lắm, thậm chí sau khi đã phá nát nó còn cho người đi kiểm tra, gặp một bé trai sống sót nó cũng giết nốt. Lại còn ở Quảng Nam, đạp Vĩnh Trinh…”
(Nguyễn Thị Ngọc Hải, “Trần Quốc Hương, Người chỉ huy tình báo”, trang 116)
Trong một thư gửi ông Mười Cúc (Nguyễn văn Linh), tháng 7 năm 1962, Lê Duẩn cũng thú nhận một tình trạng khá bi quan khi Lê Duẩn viết:
“Đã có lúc ở Nam Bộ cũng như ở khu 5, tình hình khó khăn đến mức tưởng như Cách Mạng không thể duy trì phát triển được. Nhất thiết không nên vì những khó khăn tạm thời do việc dồn dân lập Ấp chiến lược gây ra mà đâm hoang mang.”
(Lê Duẩn, Thư vào Nam, nxb Sự Thật. trang 51-59)
Mười Hương bị bắt năm 1958 sau bốn năm vào Nam hoạt động.
— Ngoài ra còn có Vũ Ngọc Nhạ, một viên chức làm việc tại Bộ Công Chánh. Bị bắt và chuyển hướng và sau đó hàng tháng phải bá cáo công tác. Sau này do lm Trần Ngọc Nhuận, cha sở Phú Nhuận, giới thiệu, bạn thân của bà Thiệu được ông Thiệu trọng dụng.
— Lê Hữu Thúy, thiếu úy được Việt cộng gài vào và được ông Đỗ Mậu đặt làm Trưởng Phòng an ninh Nha An ninh quân đội.
— Đại tá cộng sản Lê Câu sau này cũng chuyển hướng và giúp bắt được Phạm Bá Lương, Công cán ủy viên của Bộ Ngoại giao Vũ Văn Mẫu. (Lương đã chuyển toàn bộ tái liệu Kế hoạch kinh tế của Stanley-Vũ Quốc Thúc).
Tôi chỉ xin nêu vài trường hợp, danh sách còn lại khoảng 200 người.
Dư Văn Chất viết:
“Thành tích chống Cộng của Mật vụ Ngô Đình Cẩn-Dương Văn Hiếu thật diệu kỳ. Chúng đánh phá vào cơ quan đầu não của các Đảng bộ miền Trung như Liên Khu Năm, Tỉnh Ủy Thừa Thiên, Thành Ủy Huế rồi Đà Nẵng. Tiến xuông phía Nam, chúng tấn công cơ sở Đặc Khu Sài gòn-Chợ Lớn, Thủ Biên, Cần Thơ. Nổi bật nhất là Mật vụ miền trung đánh bắt gọn các lưới tình báo Chiến lược của ta trải suốt từ Bến Hải tới Sài Gòn trong vòng chỉ một năm.”
(Dư Văn Chất, ibid., trang 2)
Điều chính yếu ở đây là cả Việt Nam Cộng hoà lẫn cộng sản đều nói đến chinh sách cải tạo.
Nhưng chế độ Ngô Đình Diệm, thay ví dùng quá khứ để kết tội thì lại đề cao quá khứ của các người cựu kháng chiến và thường khi đã chuyển hướng và được cất nhắc vào những chức vụ tương đương như trường hợp Phạm Ngọc Thảo, các ông như cụ Huỳnh Văn Lang, Lê Ngộ Châu, ls Trần Văn Tuyên, Phạm Duy, Lê Tùng Minh, Hoàng Thi Thơ và nhà văn Xuân Vũ và hàng ngàn ngàn cựu công chức cũng như trí thức miền Nam, v.v..
Trong khi đó cũng cải tạo các ‘ngụy quân, ngụy quyền’, nhưng lại dùng quá khứ của họ như bản án để kết tội và đầy đọa. Cho nên, 10 người hết 10 người khi được ra khỏi trại Cải Tạo đều oán hận cộng sản không bao giờ nguây ngoa.
Điều đó cho thấy, cải tạo chuyển hưởng thời Đệ Nhất Cộng Hoà là có giá trị nhân bản để cùng nhau xây dựng đất nước. Cải tạo của các trại cải tạo cộng sản là một hình thức trả thù không hơn không kém.
Chẳng những thế, người cộng sản đỗi xử với những người cộng sản đã bị tù dưới chế độ Việt Nam Cộng hoà thuộc thành phần “có vấn đề”, không dùng, cho ngồi chơi xơi nước và canh chừng. Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức Trung ương là người từng tuyên bố: “90% tù chính trị thời Mỹ-Ngụy đều có vấn đề.”
Điều này cũng đúng y trường họp một số tù nhân cộng sản dưới thời Pháp cai trị. Điển hình là trường hợp Trần Văn Giàu bị nghi ngờ là hợp tác với Pháp và cả đời minh oan cũng không xong.
Đó cũng là trường hợp những Phạm Ngọc Ẩn, Mười Hương, thiếu tá Đặng An, Vũ Ngọc Nhạ, v.v..
Trong cuốn Bội phản hay chân chính, có trích dẫn trường hợp thiếu tá Đặng An như sau. Xin trích nguyên văn:
“Đùng một cái, đảng ủy viên thiếu tá Đặng An nhận được quyết định về vườn, nghỉ hưu kèm theo bản án khai trừ Đảng với bản luận tội thời gian Đặng An ở tù Mật vụ. Thật kinh khủng phiên toà nội bộ tàn tệ hơn bất cứ toà án nào: Nó tồi tệ hơn cả phiên xử một ten cướp cạn hay một gái điếm vì tại đây, vì bị can còn được cãi theo luật, còn có luật sự biện hộ.
Đăng An chết trong oan ức, miệng thều thào hỏi: “Sao đã chuyển hồ sơ khiếu nại với Đảng chưa?.. Ông sẽ cho chúng mày chết hết, không chết cũng thân tàn ma dại, không chết bây giờ thì về với Đảng, mày cũng chết, chết khổ chết sở, chết day chết dứt. Xem ai thắng ai? Lời nguyền của mật vụ còn nguyên đó! Tôi muốn nói nhỏ với oan hồn: “Chết là được giải thoát đó Đặng An.”
Vũ Ngọc Nhạ vai chính cuốn “Ông cố vấn” do Hữu Mai biên tập theo tài liệu, Vũ Ngọc Nhạ đã tự tử ba lần mà chưa chết, vì được cứu kịp, cũng bị nghi ngờ…
“Thì ra hồn ma thằng Cẩn đã nhập vào anh em mình. Hồn ma Ngô Đình Cẩn nhập ngay vào những đồng chí cùng tù với Nhạ, cùng ở trong Ban Tổng Kết Cục 2, và hồn ma thằng Cẩn quay “ông cố vấn” không biết đường nào mà trả lời. Ông cố vấn chứng minh bằng thuốc an thần để mong được “ngỏm” cho sớm yên thân.”
(Dư Văn Chất, tức Văn Tiến Mạnh tự Nguyễn Trọng Văn: Bội phản hay chân chính, bản Photocopy, trang 223. Tập photocopy này được phổ biến năm 1992, gồm 233 trang đề ngày 19-8 và 2-9-92 . Người chấp bút là Dư Văn Chất)
Qua những trường hợp vừa nêu trên, chúng ta có thể đi đến kết luận là: Chính người cộng sản sợ người cộng sản. Họ thanh trừng nhau trong nội bộ như trước đây và như hiện nay.
Và cuộc chiến đấu cuối cùng chính là cuộc chiến đấu giữa những người cộng sản với người cộng sản mà thôi! Chúng ta cùng chờ xem màn cuối.
Amen.

Nguyễn Văn Lục

http://www.dcvonline.net/

______________________

Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p4) 

Số phận của Phan Quang Đông và Ngô Đình Cẩn đã định xong với mức án tử hình. Ấy là chưa kể trường hợp Đặng Sỹ đã thoát án tử hình trong gang tấc! Một bài viết khác sẽ cho thấy lý do nào đã giúp Đặng Sỹ thoát án tử hình?
Những lãnh đạo mật vụ ra tòa. Công hay tội?

Ông Phan Quang Đông (1929-9/5/1964) và thơ gởi vợ trước giờ bị xử tử

Những tay chân còn lại của ông Ngô Đình Cẩn như Dương Văn Hiếu, Thái Đen, Nguyễn Thiện Dzai. Hay những người ở bên ngành cảnh sát cũng chịu chung số phận như Nguyễn Văn Y, Khưu Văn Hai, Nguyễn Văn Hai, Trần Bửu Liêm, v.v. với những bản án nặng nề: Khổ sai chung thân xử theo luật “cách mạng”.

Chỉ cần nhìn lại thực chất cuộc chiến đã qua và nhờ đó để hiểu vai trò của họ là gì? Và họ thực sự có đáng chịu những hình phạt nặng nề đó hay không?
Cuộc chiến tranh vừa qua là một cuộc chiến tranh toàn diện chẳng những về mặt ý thức hệ, chiến tranh giữa hai khối cộng sản và tư bản, chiến tranh giữa thành thị và nông thôn, giữa quân sự và chính trị.
Theo ông Đặng Văn Sung, chủ báo Chính Luận thì chiến tranh Việt Nam chỉ có 25% là về mặt quân sự, còn 75 % kia là mặt chính trị.
Nhưng cái 25% kia dưới mắt người Mỹ cũng như giới quân sự Việt Nam lại cho là yếu tố quyết định. Đối với người Mỹ, nhất là Bộ trưởng Quốc Phòng McNamra, với sự cao ngạo và tin tưởng đến lố bịch cho rắng họ biết làm thế nào để chiến thắng trận chiến này với những bộ óc chuyên viên biết nhìn vào con số, các bảng thống kê, phương pháp tính toán xác chết và hệ thống điện tử tinh vi về nhu cầu súng đạn, vũ khí và số bom đạn.
Các tính toán của McNamara chỉ có giá trị lý thuyết. Bởi vì thế khi ông ta hỏi ý kiến Ed. Lansdale về việc này. Lansdale đã trả lời là các tính toán ấy đã thiếu một “x factor”. Đó là yếu tố con người, chính trị của cuộc chiến. Đó cũng là cái 75% còn lại.
(Rufus Philipps, “Why Vietnam Matters: An Eyewitness Account of Lessons Not Learned” (2008), trang Preface)
Trong 75% còn lại đó có việc giữa người Mỹ và Việt Nam không hiểu nhau, không đồng quan điểm về chiến thuật, chiến lược, về văn hóa, về lịch sử con người. Chính ví sự kém hiểu biết ấy mà những người Mỹ chỉ nhìn thấy những ưu thế về người, về trang bị và về tiền bạc, về số bom đạn bỏ xuống bắc Việt và ở miền Nam..
Họ đã thất bại và thua cuộc.
Thất bại đó vẫn còn thấy được trong các trận chiến ở Iraq và A Phú Hãn kéo dài cho đến tận bây giờ. Một trận chiến có tên gọi là War of Terror.
Người Mỹ sau 1964 đã không còn mấy tha thiết với việc bình định và phát triển nông thôn (Rural Affairs) như ở thời kỳ đầu 1954-1955. Thời kỳ mà với chỉ trên dưới 5000- 10000 ngàn người Mỹ có mặt đã đem lại một hình ảnh tốt đẹp về nước Mỹ.
Số tổn thất sinh mạng người Mỹ lúc bấy giờ chỉ là một con số rất nhỏ, tượng trưng: 50 người so với con số tổn thất sau này 58.000 người là một sự cách biệt quá lớn lao!
Nếu người Mỹ không đổ quân ồ ạt vào Việt Nam với tổn phi rất cao về sinh mạng và tiền bạc, liệu người Mỹ có bỏ cuộc và bỏ rơi Việt Nam hay không?
Những người như đám mật vụ miền Trung của ông Cẩn nằm trong cuộc chiến mà sự thách thức đặt ra cho người cán binh cộng sản tự nhận thức rằng họ đã lầm đường. Họ không có đất sống, không có chỗ để thở trong một nông thôn ổn định, một nông thôn đem lại sự an bình, no ấm cho nông dân.
Những người như Edward Lansdale và đám phụ tá sau này như Rufus Philipps mà phần vụ còn lại của họ là lo làm thế nào phát triển nông thôn, xây dựng cầu đường, bệnh xá, trường học.
Đó là cuộc chiến hai mặt: mặt bình định nông thôn và mặt phát triển nông thôn. Nếu hiểu cuộc chiến tranh như thế thì vai trò của mật vụ Ngô Đình Cẩn phải được đánh giá lại. Và cũng cần lượng định cuộc chiến tranh leo dốc có cần thiết hay không? Còn đối với ông Nhu thì có chính sách Ấp Chiến Lược bắt chước lại của Mã Lai .

Tem Ấp Chiến Lược. Nguồn: OntheNet

(Tôi cho là Ấp chiến lược quá chú trọng đến vấn đề an ninh và chưa quan tâm cho đủ đến đời sống an sinh xã hội của người dân nên không được dân chúng hưởng ứng. Sự xây dựng đồng loạt quá vội vã và áp đặt cốt đạt thành tích mà không nghĩ tới đồi sống ấm no, có trường học, có trạm y tế, có đời sống kinh tế ổn định. Thất bại là ở chỗ đó. Nhất là ở các tỉnh Phía Nam, dân chúng sống rải rác, thưa thớt không giống miền Trung và trên cao nguyên.)

Sự thiệt thòi và kém may mắn của những cán bộ mật vụ
Khi một người lính ra mặt trận nếu giết được kẻ thù thì được thưởng công cho chiến thắng đó nhờ đó có thể lên lon, có nhiều huân chương, bằng khen. Đó là lẽ thường bởi vì họ đã đem thân mình, sự sống của họ để bảo vệ quê hương đất nước.

Thượng sĩ Nguyễn Hữu Hoàng, trưởng đồn Chắc Cà Đao trong một dịp kiểm soát ghe thuyền may mắn bắt được Ba Cụt. Ông được thưởng công đặc cách từ Thượng sĩ lên Trung úy. Điều ấy cũng rất là bình thường. Nhiều sĩ quan cấp úy, cấp tá đã được cách lên lon ngay tại mặt trận để thưởng những chiến công của họ.
Nhưng khi một người cán bộ Mật vụ nhận lãnh trách nhiệm nặng nề hoạt động bí mật như mật vụ, phản gián, biệt kích thì bại không nói làm gì, thành công cũng không có một quy chế thăng thưởng rõ rệt, trừ những người ở trong quân ngũ. Còn có gì nguy hiểm hơn là các chiến sĩ thám báo, các Biệt kích được gửi ra Bắc?
Một Thượng sĩ bắt được Ba Cụt được đặc cách như thế thì Dương Văn Hiếu và đồng bọn khi bắt được Mười Hương, Cục trưởng cục tình báo cộng sản phải được tưởng thưởng như thế nào cho xứng đáng? Chẳng hạn thay thế Bùi Văn Lương, làm Bộ trưởng Bộ nội vụ?
Vì là tin tức tình báo bí mật nên báo chí không hề đăng tin, dân chúng hoàn toàn mù tịt!
Cho đến hơn 40 năm sau, một trăm người tự nhận là chống cộng khét tiếng, có mặt hò hét trong bất cứ cuộc biểu tình nào thì đến 99/100 người trên không hề biết Mười Hương là ai? Dương Văn Hiếu là người thế nào? Có ai biết thành tích của Dương Văn Hiếu? Và tôi biết được một phần là do năm tập tài liệu của cộng sản viết.
(Năm cuốn sách là: Đoàn Mật vụ Ngô Đình Cẩn của Văn Phan. Đường Thời đại của Đặng Đình Loan. Cuộc chiến tranh đặc biệt, Hồi ký của Đinh Thị Vân. Và hai cuốn: “Bội phản hay chân chính” của Dư Văn Chất và “Trần Quốc Hương, Người chỉ huy tình báo” của Nguyễn Thị Ngọc Hải.)

Nguồn: Nhà xuất bản: NXB Hồng Bàng

Giả dụ hồi đó, báo chí được đăng tải tin tức khắp nơi, họp báo, rồi đưa Mười Hương và đồng bọn không chịu chuyển hướng ra cho dân chúng coi, thử hỏi kết quả sẽ ra sao?

Tôi vẫn chưa tìm ra lời giải thích, tại sao ta lại phải giữ bí mật về những thành tích như vậy? Cộng sản Bắc Việt khi bắt được phi công Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời Bắc Việt thì chúng mang người phi công bị trói tay ra sau lưng đi khắp phố phường cho dân chúng phỉ nhổ.
Thiệt thòi ấy không phải chỉ dành cho cá nhân Dương Văn Hiếu mà cho cả miền Nam.
Và sau này, Cách mạng nào dám đưa Dương Văn Hiếu ra xử tội và kết tù chung thân khổ sai vì trước đó Dương Văn Hiếu đã được vinh danh là chiến sĩ ngay cả là anh hùng diệt cộng?
Kẻ thù của chúng ta đã viết năm cuốn sách ca tụng, vinh danh Ngô Đình Cẩn và bọn Dương Văn Hiếu, còn người Quốc gia kết tội họ, nhục mạ họ, phỉ báng họ? Giữa Ngô Đình Cẩn và Thích Trí Quang, ai là người có công và người có tội đối với miền Nam? Ai đáng xử chém? Và ai chém ai?
Đã có một cuốn sách nào viết về họ không? Không. Hoàn toàn không. Ngoại trừ các cuộc phỏng vấn của ls Lâm Lễ Trinh trong Thức Tỉnh, 2007
Sau đây, người viết xin được trích dẫn một đoạn tâm trạng của một cán bộ cộng sản đã chuyển hướng cho thấy sự thành công của Đoàn Mật vụ Dương Văn Hiếu như thế nào:
“Tới khi khoanh vùng, cơ sở bị đánh tan tành xí quách, bám trụ trong dân không nổi nữa, phải bật lên núi. Bám núi, anh cán bộ vẫn chỉ đạo phong trào ở đồng bằng. Đối phương leo núi, cắt đường liên lạc, tiếp tế.. Lương thực cạn dần, liên lạc tắc nghẽn. Cuộc sống ngày một trờ thành vô nghĩa nếu cứ bám trụ trên núi cao, trong rừng sâu, quanh quẩn với cây rừng và khỉ đột. Hãy khoan nói tới những gì cao xa, cái bao tử này trước đã. (Chân vỗ đồm độp vào bụng mình mấy cái) Nó đòi hỏi phải được ưu tiên giải quyết trước hết. Hết gạo, hết lương khô, hết mọi thứ. Đói quá không tính thì chết đói. Không lẽ chết đói để giữ vững khí tiết người vô sản? (…) Đó, tình hình miền Trung như vậy, bối cảnh như thế-phần nào anh đã hình dung được những nét đặc trưng của phong trào, đặc ính của địa phương, đặc thù của tình hình. Tôi cùng một số đồng chí cũ, cũng là những cán bộ có trách nhiệm với đồng bào địa phương mình, cùng ở trong một cảnh ngộ: đầu hàng. (… )
Với thảm trạng não nề, ê chề như vậy, tới độ nào đó tự nhiên chất người biến đổi đưa tới phản ứng tâm lý dây chuyền không sao cưỡng lại được nữa, là dân oán ghét cán bộ, cán bộ oán trách |Đảng. Người ta cảm thấy mình bị phản bội. Thực tế sau đó là nhân dân có kết luận rằng: “cán bộ đi tới đâu gieo tang tóc tới đó” nên đồng bào dứt khoát “thò anh cán bộ nào ra, túm đầu anh đó, giao nộp cho nhà chức trách.”
(Trích Văn Tiến Mạnh “Nhà Văn bất đắc dĩ”, ngày 20/4/1995, dài 26 trang)
Xét về mặt quân sự, chúng ta phải cần bao nhiêu tiểu đoàn để vây và phá tan một cơ sở hậu cần của một quận? Và nếu vị sĩ quan VNCH nào đánh trận này phá trắng được một cớ sở của địch thì vị sĩ quan đó có được đề nghị để được thăng cấp ngay tại mặt trận không? Vấn đề thu phục lòng dân để dân tỉnh ngộ nghe theo cần bao nhiều thời gian làm công tác dân vận?
Vậy mà Đoàn công tác Mật vụ miền Trung đã khoanh vùng, rồi xóa trắng các vùng xôi đậu do cộng sản bám trụ suốt dọc miền Trung, nắm vững từ trước và sau Hiệp Định Genève đến nay. Tôi đã từng sống và quen thuộc các tỉnh miền Trung. Vậy mà sau 63, nhất là từ 66 trở đi, đi công tác từ Nha Trang ra Phan Thiết, phải dùng máy bay quân sự.
Họ đã được thưởng công gì|? Như thế nào? Bằng văn thư, Nghị định nào của Bộ Nội Vụ? Hay họ đã không nhận được bất cứ một lời khen thưởng trực tiếp nào của ông Ngô Đình Cẩn?
Chẳng hạn Mật vụ của Dương Văn Hiếu sau này được thưởng gì để khuyến khích họ là nhờ quỹ đen của TT Ngô Đình Diệm. Nhưng các nhân viên của ông Hiếu, trong suốt 9 năm trời phục vụ tận tâm cho guồng máy Mật vụ đem lại an ninh cho toàn khu 5 và các tỉnh lân cận thì họ được thăng thưởng chức vụ gì? Được hưởng tiền bạc ra sao? Chính bản thân Dương Văn Hiếu, chức vụ có thể ngang hàng giám đốc công an, nhưng không được cấp phát nhà chính phủ.
Đáng lẽ, phải cho họ đảm nhận các chức vụ quận trưởng hoặc phó quận trưởng các vùng đó thì mới xứng đáng công trạng của họ và gìn giữ an ninh vùng được lâu bền. Sự thiệt thòi ấy dù sao vẫn có thể chấp nhận được.
Nhưng khi chính quyền sụp đổ, như thời Đệ Nhất Cộng Hòa, họ bi coi là người của chế độ và bị trừng phạt nặng nề nhất.
Trong khi đó cả một guồng máy chính phủ, các lãnh đạo hàng Bộ trưởng thường phục vụ đắc lực cho chế độ thì lại được miễn trừ mọi trách nhiệm hình sự? Chẳng hạn, ông Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ có phải chịu trách nhiệm gì về cái chết của Ba Cụt không?
Sau đây, tôi xin tóm tắt danh sách các nhân viên Mật vụ bị ra tòa và bị Toà án cách Mạng xử phạt tù chung thân khổ sai.
Vụ xử Bọn Mật vụ Dương Văn Hiếu với 42 nhân chứng (có chỗ ghi 44).
Theo bài báo của ký giả Nam Đình, đăng trên nhật báo Thần Chung .
“Vụ xử là ngày thứ tư 26-6-1964 với Công Tố viên quen thuộc là Nguyễn Văn Đức. Vụ xử dựa trên sắc luật 4/64. Các nhân chứng là 42 người gồm bác sĩ, luật sư, giáo sư, nhân sĩ, nhà báo, thương gia bị bắt cóc, bị tra tấn cực hình, không khác nào tra tấn những tên tướng cướp, giết người. Tra tấn để rồi khảo của, xét nhà rồi lấy tiền, lấy vàng. Chúng bắt người đoạt xe hơi: chúng tước đoạt từ cái bốp phơi đựng tiền, đồng hồ … cho đến cặp mắt kiếng, chúng cũng lấy nốt. Không một báu vật nào trong nhà mà chúng chịu bỏ lại cho vợ con nạn nhân.
Sắc luật thiết lập tòa án Cách Mạng có dự bị những tội trạng “các việc tịch thu bất hợp pháp” “tra tấn và phạm trọng tội” “bắt giam trái phép”… mà hình phạt tối đa “không quyền giảm khinh” là án tử hình.”
Thật rất tiếc, nhà báo Nam Đình cũng không nêu tên hoặc danh sách 42 nhân chứng, nhưng chỉ nêu tên có một người là: Ông Phan Khắc Sửu. Sau này, tôi cũng không có cơ hội đọc các hồi ký của 42 nhân sĩ, nạn nhân của Ngô Đình Cẩn?
Sau đây, xin trích dẫn tiếp theo nội dung câu hỏi của Công Tố Viện hỏi bị can Dương Văn Hiếu:
“Ô. Nguyễn Văn Đức thay mặt Công tố viện, hỏi bị can Dương Văn Hiếu suốt 10 mười phút về danh từ ‘Công tác đặc biệt’:
— Tại sao không gọi, ví dụ ‘công tác chống Cộng’ hay công tác gì đó, chớ sao lại đặt ra danh từ “công tác đặc biệt”. Đặc biệt là nghĩa gì?
Hiếu lúng túng không biết đâu trả lời. Ông Chưởng lý hỏi tới nữa, Hiếu đáp: ‘Danh từ công tác đặc biệt đã có từ lâu rồi…’

Ông chưởng lý như nói một mình: ‘Thảo nào! Những công tác đặc biệt thật là đặc biệt!’
Mỗi lần nhân chứng khai rồi, Ô. chánh thẩm day qua hỏi bị can:
— Bị can có nhìn nhận… không?

Và mỗi lần hỏi vậy, các bị can đều trả lời: ‘hoàn toàn không có’.”
(Trích Nam Đình, ibid., nhật báo Thần Chung)

Kết quả Bản án Mật vụ
Sau đó thì tòa tuyên án chỉ có 4 người đứng đầu. Tất cả nhân viên khác được tha bổng.

- Dương Văn Hiếu: chung thân khổ sai.
- Thái Đen tức Nguyễn Như Thái: Chung thân khổ sai. (Thật ra có hai Thái. Thái trắng, tức Lê văn Thái làm việc cho Trần Kim Tuyến).
- Nguyễn Thiện Dzai: Chung thân khổ sai.
- Phan Khanh: 10 năm khổ sai.
Theo sự tiết lộ sau này của Dương Văn Hiếu với luật sư Lâm Lễ Trinh, “bà quả phụ ông Đinh Xuân Quảng, vợ của một ông cựu Bộ Trưởng thời Bảo Đại thưa tôi đã tra khảo bà. Nhưng không có bằng chứng cụ thể.”
Cũng theo Dương Văn Hiếu, nếu tôi có giết ai thì sau này chắc chắn Mai Hữu Xuân đã “làm thịt” tôi rồi. Chính Mai Hữu Xuân cũng nới với Dương Văn Hiếu như thế. Tuy nhiên, tòa án Cách mạng do một thẩm phán dân sự chủ tọa. (Trong đó có đại tá Dương Hiếu Nghĩa làm thành viên.)
Nhưng chẳng bao lâu sau, năm 1964, chính phủ cho ba chiếc máy bay chở tất cả đám tù chính trị mật vụ, khoảng 40 người về đất liền. (Thật ra lệnh thả là do ông Trần Văn Hương ký giấy thả)
Việc kết án tù chung thân khổ sai rồi sau đó thả cho thấy đây hoàn toàn là một vụ án chính trị, không có căn bản pháp lý cũng như thủ tục tố tụng.
Ít lâu sau, Dương Văn Hiếu nhận được giấy của Phủ Đặc Ủy Trung Ương tình báo, tướng Nguyễn Khắc Bình, bến Bạch Đằng mời đến làm việc ở Phòng Nghiên cứu về tình báo.(Một cách cầm chân Dương Văn Hiếu giữ vai trò văn phòng, ngồi chơi xơi nước.)
Đó cũng là trường hợp của Đào Quang Hiển, từng là Giám đốc Nha Nội An Bộ Nội Vụ bị giam tù bảy tháng, sau cũng được điều về làm ở Phủ Đặc Ủy Trung Uơng tình báo với chức vụ Giám đốc Nha tổ chức dưới quyền của đại tá Lê văn Nhiêu, người của Nguyễn Khánh.
(Lâm Lễ Trinh, “Thức tỉnh. Quốc Gia & Cộng sản”, trang 425)

Những án tù khác
Xin tóm tắt vì những người này không nằm trong khuôn khổ Đoàn Mật Vụ Ngô Đình Cẩn. Trich lại nhan đề bài báo của Ký giả Nam Đình, báo Thần Chung như sau:

“Chúa Nhựt 18, Thứ hai 19-7-65. 13 nhân viên cao cấp trong Ngành Cảnh Sát Quốc Gia. Phạm tội bắt giam trái phép và Thủ tiêu 13 Nhà Ái Quốc: 10-6-1964.”
13 nhà ái quốc có tên sau đây:
Nguyễn Phan Châu, tự Tạ Chí Diệp
Huỳnh Hữu Thiện, tự Dư
Huỳnh Thiện Tứ
Nguyễn văn Tập, tụ giáo Tập
Nguyễn Văn Danh
Lê Hoài Nam, tự Trương Văn Kinh
Vũ Tam Anh
Lâm Hoàng Bá
Trần Chí Tài
Lý Tâm Nghiệp
Tôn Thất Dương
Nguyễn Bảo Toàn
Phan Xuân Gia
Cuối cùng cũng chỉ xử kết án 4 án chung thân khổ sai. Còn được tha bổng hết.
4 án khổ sai gồm: Nguyễn Văn Y, Nguyễn văn Hay, Khưu Văn Hai và Trần Bửu Liêm. Còn tha bổng: Huỳnh Phước Bang, Lê Văn Thảo, Nguyễn văn Ngời, Nguyễn Thanh Huân, Nguyễn văn Hiếu, Võ Văn Chẻ và Võ Văn Dưỡng.”
Trong vụ án này, nó có một chi tiết đáng phải nói. Trước hết, xin trích lại bài báo của ký giả Nam Đình trên tờ Thần Chung như sau:
“Sau 4 tiếng đồng hồ nghị án, ông chánh thẩm Trần Minh Tiết và các ông phụ thẩm nhân dân và quân nhân phải trả lời nhiều câu hỏi để rồi đồng ý khép về tội “cố sát không dự mưu” nên cả 4 người mới khỏi chết.”

Lời bàn
Một đứa trẻ con cũng biết rằng vụ ám sát chính trị phải có lệnh từ trên và để thực hiện, phải có kế hoạch hẳn hoi.. Vậy mà tòa án cách Mạng đã bẻ quẹo đây là một vụ “cố sát không dự mưu” để tránh bản án tử hình cho các bị can?

Ai có thể tin được quyết định của ông Chánh Thẩm Trần Minh Tiết là xử đúng pháp luật?
Lại còn trường hợp Thiếu tá Đào Quang Hiển chẳng hiểu vì lý do gì được tha bổng? Bởi vì ra trước tòa, Khưu Văn Hai khai rằng, ông chỉ làm theo lệnh của Thiếu tá Đào Quang Hiển?

Kết luận
Tôi đã sống trọn vẹn tuổi trẻ và tuổi trưởng thành của tôi giữa hai nền Đệ Nhất và nền Đệ Nhị Công Hòa. Tôi hiểu được phần nào những thành tựu cũng như những thất bại của cả hai. Tôi yêu mến và hãnh diện về nền Đệ Nhất Cộng Hòa và không thể nói khác được. Tôi để những lời thù hận chế độ ra bên ngoài tai vì tôi nhận ra càng ngày xu hướng chính trị nói chung cả người Mỹ lẫn người Việt đều nhận thức được đâu là sự thật và cái chết oan nghiệt của họ.
Nhưng có một điểm khác biệt sâu xa giữa hai chế độ ấy là: Lãnh đạo nền Đệ Nhất Cộng Hòa tuy non trẻ và thiếu nhiều kinh nghiệm, nhưng lý tưởng quốc giả, lòng yêu nước và lý tưởng phục vụ cao nơi những người như ông Diệm. Bên cạnh ông Ngô Đình Diệm là những người công chức gương mẫu, sống thanh bạch, đạo đức nghề nghiệp như cụ Quách Tòng Đức, ông Võ Văn Hải, ông Đoàn Thêm và những người cán bộ Mật vụ.
Đặc biệt, tôi nghĩ rằng phải trả lại công đạo cho những cán bộ cốt cán của nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã bị xử oan sai cần được đánh giá lại. Công của họ thì nhiều mà tội thì không chứng cớ rõ ràng.
Chỉ cần so sánh hệ thống điệp báo giữa hai thời kỳ đủ rõ. Sau 1963, Phủ Đặc Ủy Trung ương tình báo do tướng Nguyễn Khắc Bình, với số nhân viên đông đảo, tiền bạc đầy đủ nào đã có những công trạng gì? Hay chỉ thấy, cán bộ cộng sản xâm nhập gần như công khai trong các trường học, trong một số chùa chiền và trong các cơ quan chính phủ! Việc khui ra ổ gián điệp Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng trong Dinh Độc Lập đăng tải công khai trên báo chí là do CIA, nào phải công trạng của Phủ Đặc Ủy.
Nhìn lại những năm đầu của nền Đệ I Cộng Hòa, ít lắm thì đó là một xã hội có kỷ cương, có nề nếp, có trật tự. Nếu có điều gì phải hối tiếc nơi cá nhân tôi là đã có lúc tôi đã đánh giá cao Trần Kim Tuyến cả về nghiệp vụ cũng như về lòng trung thành của ông ta mà sau này tôi biết là mình đã lầm lẫn. Điều ấy cũng đúng cả trong trường hợp Dương Văn Minh nữa.
Nhưng sau này tôi đã không thể tìm thấy những điều tối thiểu ấy nơi các nhà lãnh đạo sau 1963 như các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, v.v...
Tôi còn nhớ như in là sau cuộc cách mạng thành công, các tướng lãnh cho phép mở phòng trà, cho nhảy đầm. Bỏ bê Ấp Chiến lược mà không có một giải pháp chính sách nào thay thế.
Sự nhốn nháo và bất bình trong đám tướng lãnh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ngay từ dầu mỗi ngày mỗi lộ ra không cần dấu diếm.
Cái chết của hai ông Diệm và Nhu thay vì giúp họ an tâm, đoàn kết lại với nhau lại là mầm mống chia rẽ họ. Sự chia rẽ ấy, người Mỹ biết hết mà không can thiệp. Mỹ lỏng tay cho Nguyễn Khánh làm chỉnh lý.
Rồi sự chia rẽ trở nên trầm trọng hơn khi Dương Văn Minh loại bỏ không có tướng Nguyễn Khánh và tướng Đỗ Cao Trí trong Hội Đồng Quân Nhân. Sau này nó sẽ là nguyên nhân của các cuộc chỉnh lý.
Đặc biệt, nhìn lại những việc làm của Dương Văn Minh đều là những việc làm tiêu cực cả. Cuộc đời làm chính trị của ông là vai trò bù nhìn trong nhiều trường hợp.
Lấy một thí dụ. Báo Chính Luận, ngày 8-5-1964 đưa tin như sau:
“Sắc lệnh bác đơn xin ân xá của Đông và Cẩn. Saigòn (VTX). Sáng 5-5-64, Trung tướng Dương Văn Minh, Quốc Trưởng VNCH đã ký một ngày hai sắc lệnh số 0006-QT/SL và số 0007-QT/SL bác đơn xin ân xá của Phan Quang Đông (đề ngày 28-3-64 và của Ngô Đình Cẩn đề ngày 23-4-64.”
Giết người Quốc Gia, nhưng lại thả tất cả các cán bộ cộng sản bị bắt trước 1963. Điều này không hiểu tại sao, dư luận báo chí không lên tiếng! Hành động này có khác chi một hành động “phản quốc”?
Hãy nghe Mười Hương nhận xét:
“Lực lượng đảo chánh của Dương Văn Minh lo thanh trừng phe phái của Diệm, không quan tâm số tù chính trị cũ, nên cho thả rất đông và rất dễ. Nguyễn Tư Thái (phụ tá Đoàn công tác đặc biệt miền Trung) sau này có nói, năm 1965, nghe Trần văn Hai — chủ sự phòng Thẩm vấn khối Cảnh sát đặc biệt — chửi bọn đảo chính chẳng làm ăn được gì cả, còn ăn đút lót để thả cán bộ cộng sản, và đã thả nhầm một cán bộ tình báo cấp quan trọng là Mười Hương. Hồ sơ của ông có nhận xét ở phiếu tóm lược:
“Đương sự ngưng hoạt động năm 1955, hơn nữa không gia nhập đảng cộng sản và đã bị giam giữ 6 năm.””
(Nguyễn Thị Ngọc Hải “Trần Quốc Hương, Người chỉ huy tình báo”, trang 155)
Tôi không hiểu ai là người đã làm hồ sơ giả như trên để có cớ thả Mười Hương?
Mười Hương đã được thả ngày 18 tháng 5-1964. Nghĩa là 6 tháng sau cuộc cách mạng lật đổ chế dộ Đệ Nhất Cộng Hòa. Khi được thả ra, Mười Hương còn cười vào mặt những kẻ đã thả ông bằng cách bịa chuyện như sau: “Tụi địch còn đùa: Nay, tụi này thả ông anh ra về kịp ăn sinh nhật cụ Hồ.”
Tôi thấy nhục thay cho Dương Văn Minh. Nhục thêm nữa khi nhin bức hình ông ta cúi gầm mặt như một tên tội đồ đến đài phát thanh để đọc lệnh đầu hàng.

Nguyễn Văn Lục

© 2017 DCVOnline

____________________

Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p5)

Đặng Sỹ đáng lẽ phải đi theo gót chân Ngô Đình Cẩn sớm về bên kia thế giới. Nhưng vì sao ông tránh được bản án tử hình? Chúng ta cùng nhau nhìn lại vụ án Đặng Sỹ.

Đặng sỹ, kẻ thoát án tử hình

Ngày mồng 8 tháng 5, năm 1963 là ngày đáng ghi nhớ. Bởi vì nó là ngày mở đầu cho biến cố Phật Giáo miền Trung năm 1963, nhưng lại là một bi kịch cho số phận nền Đệ Nhất Cộng Hòa.
Ai là người bày ra tấn bi kịch này? Cho đến hiện nay, chưa một ai có thể khẳng định một cách minh bạch. Trong ngày đó, vào khoảng 10 giờ 30 tối, có cả thảy 8 em vô tội đã bị thảm sát tại Đài phát thanh Huế.
Xin được nhắc lại tên các nạn nhân: Nguyễn Thị Ngọc Lan, 12 tuổi. Huyền Tôn Nữ Tuyết Hoa, 12 tuổi, Nguyễn Thị Phúc 15 tuổi. Lê Thị Kim Khanh 17 tuổi, Trần Thị Phước Trị 14 tuổi, Nguyễn Thị Yến, 20 tuổi,Nguyễn Văn Đại 13 tuổi, và Đặng Văn Công 13 tuổi.
Các em đều là những nạn nhân phần đông rất trẻ! Đạn hay chất nổ vô tình không trừ ai! Vậy mà đây như thể có chọn lựa ai là người phải chết?
Đó là nhận xét và câu hỏi không kém quan trọng của người viết bài này. Xác chết thường là nhân chứng cuối cùng và cứ hỏi nó, nó sẽ tố cáo ai là thủ phạm.

Bia đá ghi “Đài Kỷ Niệm Thánh Tử Đạo” do Giáo hội Thừa Thiên dựng ở ngã tư Lê Lợi – Hùng Vương, phía góc Đài Phát thanh cũ

Qua các nạn nhân này, Hồi chuông báo tử phải chăng đã gióng lên cho một chế độ?
Các nhân chứng có mặt tại hiện trường khẳng định như thế. Và dư luận thời đó và ngay cả hiện nay, nhiều người vẫn thiếu suy nghĩ cho rằng vụ thảm sát tại đài phát thanh Huế là do xe tăng của Thiếu Tá Đặng Sĩ đã cán chết các em. Và người trực tiếp trách nhiệm vụ thảm sát này không ai khác hơn là Đặng Sỹ?
Làm sao “xe tăng” lại chỉ chọn cán trẻ em mà không phải người lớn?
Và làm sao đại liên từ khoảng cách 50 mét, cách xa đài, nếu bắn thì người lớn chết trước? Hà cớ gì lại là trẻ con?
Riêng ông Ngô Đình Cẩn, trước khi chết có tâm sự với luật sư Võ Văn Quan là ông không có ra lệnh cho Đặng Sỹ giết trẻ em trước đài phát thanh.
Điều rõ ràng và chắc chắn là ngày nay không có một ai nghĩ rằng ông Ngô Đình Cẩn có dính dáng vào vụ nổ này. Ngay trước tòa án quân sự xử Ngô Đình Cẩn, công tố viện cũng không đề cập đến vấn đề này.
Cần có một câu trả lời cho cái chết của các trẻ em vô tội chết không toàn thây trước cửa Đài phát thanh Huế? Tại nơi đây, người ta đã dựng một tượng đài để tưởng nhớ vong linh các em. (Thật ra có 9 em, nhưng một em theo công giáo nên gia đình đã xin rút tên khỏi danh sách).
Nhưng sau hơn nửa thế kỷ, tôi nghĩ trọng tâm của bài viết này không hẳn là đi tìm thủ phạm, bởi vì mất nhiều thời giờ mà thủ phạm trong một biến cố hạ sát người như thế cho đến nay vẫn chưa biết chắc chắn là ai?
Nhưng điều chắc chắn là Đặng Sỹ là con dê tế thần thứ ba đáng lẽ cũng nhận một án tử hình như Phan Quang Đông, như Ngô Đình Cẩn. Nhưng ông đã may mắn thoát nạn.
Vì thế, tôi sẽ đưa ra một chứng cớ hồ sơ chưa được tiết lộ trong thời kỳ đó. Chứng cớ có giá trị thuyết phục; hồ sơ này có thể là yếu tố quyết định đã tha cái mạng cho Đặng Sỹ?
Điều thứ hai là, tôi muốn viết ra đây là nếu xử tội, để cho công bằng, thì ngoài thiếu tá Đặng Sỹ thì những cấp chỉ huy trực tiếp của ông cũng phải liên đới trách nhiệm.
Đặng Sỹ không thể giết người một mình cũng như đại úy Nguyễn Văn Nhung không thể tự ý trói tay anh em ông Diệm, đâm và bắn được!
Chẳng những họ phải ra tòa làm nhân chứng mà còn phải nhận lãnh trách nhiệm đồng lõa nếu thực sự có bằng cớ.
Thứ nhất, với tư cách nhân chứng, tòa bắt buộc TT. Trí Quang phải ra trước tòa, vì ông là nhân chứng quan trọng số 1. Ông không muốn ra tòa án phải có trát lệnh đòi ông ra, nếu cần, cảnh sát sẽ áp tải ông ra trước tòa, vì ông là người có mặt trước thềm đài phát thanh.
Vậy mà tòa đã bỏ qua vì không dám gửi trát đòi ông này này ra hầu tòa. Ông ở trên pháp luật. Thế thì công lý ở đâu?
Thứ hai nếu nhìn nhận Đặng Sỹ là người trực tiếp gây ra cái chết của 9 em nhỏ thì không thể nào không nói đến trách nhiệm liên đới của những cấp chỉ huy của thiếu tá Đặng Sỹ. Người thứ nhất là ông Nguyễn Văn Đẳng, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng thành phố Huế. Đại tá Đỗ Cao Trí, tư lệnh Sư Đoàn 1 và nhất là Thiếu tướng Lê văn Nghiêm, tư lệnh vùng I chiến thuật.
Nếu Đặng Sỹ bị kết án tử hình thì theo luật Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm có bị tử hình không vì ông là người ra lệnh? Phải chăng bản án tử hình vì thế đã được giảm khinh xuống tù chung thân?
Chính điều này là một trong những yếu tố để tòa án cách mạng không dám thẳng tay với Đặng Sỹ chăng?
Tôi cũng rất lấy làm tiếc ra hải ngoại, tôi đã liên lạc được với thiếu tá Đặng Sỹ hai lần. Nhưng cả hai lần ông đều khất lần và sau đó ông đã qua đời ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn.
Bài viết có hai phần, phần đầu, chọn lựa dựa trên các lời viết của các nhân chứng hàng đầu, có mặt trong biến cố đài phát thanh Huế.
Ở phần đầu, người đọc sẽ thấy, các nhân chứng nói mâu thuẫn nhau, ông nói gà bà nói vịt. Và nếu cứ căn cứ trên những điều mâu thuẫn trái ngược nhau như thế, tòa có bắt buộc phải tha bổng cho Đặng Sĩ không?
Sang phần hai, vụ xử án Đặng Sỹ trước tòa án cũng vậy. Mọi kẻ có liên đới trách nhiệm đều ra trước tòa với tư cách làm nhân chứng. Những sĩ quan dưới quyền Đặng Sỹ thì không người nào được gọi ra trước tòa! Người ta sợ lời khai của họ chăng?
Nhưng như chúng ta đã được biết, đây là một vụ án dựa vào chính trị nên việc kết án hay tha bổng không tùy thuộc vào tòa án mà thuộc vào những thế lực bên ngoài tòa án.
Và cũng nhờ vào đó, Đặng Sỹ được thoát bản án tử hình trong gang tấc.

Phần 1: trích dẫn về những chứng từ trong đêm 8 tháng 5 năm 1963, tại đài phát thanh Huế.
Những chứng từ sau đây của các nhân chứng hầu hết nhìn tận mắt cho thấy một sự việc đã được nhìn, được thấy như thế nào?
Ông Nguyễn Khắc Từ, Huynh trưởng gia đình Phật Tử, người đã có mặt từ đầu đến cuối bên cạnh Thượng Tọa Trí Quang. Ông viết:
“Một chiếc xe mang tên Ngô đình Khôi cán bừa lên cả người đồng bào. Vài tiếng thét ghê rợn. Mặc kệ, họ cứ tiến vào đám quần chúng. Giữa lúc ấy, 3 tiếng súng lục chát chúa khô khan vang lên, và lựu đạn cay tung ra tứ phía. Từng loạt súng liên thanh và một tiếng nổ kinh hồn rung chuyển cả đài phát thanh. Tiếng súng vẫn nổ. Trong đài, chúng tôi vào ẩn trong trong phòng hoà âm gồm các Thượng Tọa, Đại Đức, ông Tỉnh trưởng và một số chúng tôi.”
(Trích trên web Giao Điểm; web Giao Điểm trích từ tạp chí Liên Hoa, số ra ngày 15 tháng 1965, Sài Gòn.)
Nhận xét: Cứ như ông Từ viết, lúc xảy ra có tiếng nổ, ông ở trong đài và ẩn trong một phòng hoà âm cùng với các Thượng Tọa, Đại Đức. Vậy bằng cách nào, ông có thể nhìn thấy cảnh xe tăng tiến vào với ba tiếng súng lục nổ. Đặc biệt, ông là một trong những nhân chứng nói đến xe tăng cán bừa lên quần chúng và lựu đạn cay tung ra tứ phía.
Theo lời của nhân chứng, các nạn nhân chết vì ba nguyên nhân: vì xe tăng cán, vì tiếng nổ kinh hồn và đạn đại liên.

Bác sĩ Erick Wulff

Thượng tọa Thích Trí Quang (phải) và Bác sĩ Erich Wulff (giữa). Ảnh: tư liệu N.Đ.X.

Phỏng vấn giáo sư Erick Wulff của báo Liên Hoa, số Đặc biệt Phật Đản, ngày 26 tháng 5- 1964. (trích lại trên Giao Điểm). Cuộc phỏng vấn này xảy ra khi bác sĩ người Đức này trở lại thăm Việt Nam.
“Đêm 8-5-1963, tôi và anh Tôn thất Kỳ, sinh viên y khoa của tôi có đến xem cuộc lộn xộn trước đài phát thanh Huế. Khi chúng tôi vừa đến thì điều làm chúng tôi hốt hoảng là một loạt súng chát chúa vang lên. Liền đó, xe thiết giáp kéo đến, tôi thấy rõ ràng có một chiếc xe mang tên “Ngô đình Khôi” có gắn súng 12-7, chĩa nòng súng vào phía dân chúng đang tụ tập nhốn nháo quanh đài phát thanh. Tôi đang bỡ ngỡ thì lại nghe tiếng nổ rất lớn. Rồi nhiều tiếng nổ khác tiếp theo.”
Tiếp theo, ông đến nhà xác.
“Tôi thấy một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp, 7 cái xác chết tan hoang, nhưng còn có thể nhận ra được, kẻ bị văng óc vỡ đầu, kẻ thì thân xác nát bấy, máu thịt đất cát cùng với óc não lẫn lộn be bét, còn một cái xác khác thì hoàn toàn tan nát từng mảnh không sao nhận ra được. Xem xét các xác chết, tôi thấy có ba xác bị bể sọ, quan sát kỹ chắc là do đạn (cỡ súng lớn bắn). Mà chắc là do súng cỡ lớn trên xe thiết giáp Ngô Đình Khôi bắn. Đạn này làm bay cả sọ, văng óc ra ngoài.”
Kết luận ông đáp:
“Vì tôi đã tận mắt chứng kiến cuộc thảm sát ở Đài phát thanh Huế, tôi vô cùng xúc động trước sự đàn áp dã man này nên tự thấy có bổn phận ủng hộ cho cuộc đấu tranh.”
Bài trích dịch từ cuốn Vietnamesische Lehrejahren, 1972, từ trang 129-142, trích lại trên trang Giao Điểm và cũng trên Khuông Việt, 2003 trong bài “Những tháng ngày không quên” của Thái Kim Lan. Chứng từ thứ hai của Bác sĩ Erich Wulff, giáo sư Đại học Y khoa Huế, từ 1961-1967.
Giữa bài phỏng vấn và bài trích trong sách của ông bác sĩ người Đức có nhiều chi tiết khác nhau.
“Tôi bỗng nghe một người nào đó gọi tên tôi. Đó là Tý, một người học trò của tôi. Tý hỏi tôi muốn đi cùng đến nghe phát thanh lại bài nói chuyện sáng hôm nay của Thích Trí Quang, bài này sẽ được phát đi trong vòng vài phút nữa và sẽ được truyền ra bên ngoài bởi những loa phóng thanh đặt trước cửa đài.
Vài phút sau đó có tiếng ầm ầm của một đoàn xe thiết giáp. Có tất cả 5 xe thiết giáp xuất hiện. Một chiếc tìm cách đi thẳng vào khuôn viên của đài phát thanh. Nó dừng lại chỉ cách Tý và tôi vài bước mà thôi. Và rồi những phát đạn đầu tiên được bắn ra từ nòng súng cà nông của xe thiết giáp, chúng tôi nghe khoảng 10 phát súng nổ kêu vang và khô khan. Tôi có thể nhìn thấy rõ ràng đầu ngọn lửa phát ra từ họng súng của hai chiếc xe án ngự nơi bồn tròn nằm phía đầu cầu Trường Tiền. Sau đó một loạt súng trường bắt đầu nhả đạn. Sau đó, tôi đã gặp Paul Miller, một người Mỹ còn trẻ làm việc trong văn phòng trường đại học. Anh ta kể rằng “họ đã đi qua đây”. Thiếu tá Đặng Sỹ, người cầm đầu đoàn quân đã bảo anh ta phải biến mất đi. Sắp có màn phải giết người, vì ông ta đã nhận được lệnh của cấp trên đến dẹp tan vụ bạo lọan tại đài phát thanh với bất cứ giá nào.”
Sau đó, bác sĩ Wulff được một người y tá dẫn vào cổng sau nhà xác. Tai đây, ông ghi nhận như sau:
“Không có ánh đèn điện. Dưới ánh sáng yếu ớt của đèn bạch lạp, chúng tôi thấy có 7 thân người đầy máu me được đặt trên ba bàn khám nghiệm bằng đá. Từ chân đến ngực, thân thể họ còn nguyên vẹn. Nhưng năm cái xác, tất cả là trẻ em, thì không còn đầu. Nơi một người phụ nữ thì có những vết đạn bắn vào cánh tay, vai và cổ. Các xe thiết giáp đã bắn nát đầu các em thiếu nhi, có lẽ vào lúc các em leo qua hàng rào của đài phát thanh và nhô đầu ra trước. Nếu như các em khôn ngoan như người lớn, tức là nằm xuống dưới đất lúc súng đạn bắt đầu nổ thì có lẽ các em đã không hề hấn gì.
Khi về đến cư xá giáo sư đại học, tôi vội bước đến phòng của Giáo sư Krainick. Tình cờ lúc đó bà Krainick đang đọc vào máy ghi âm bức thư gia đình hỏi thăm các người con. Trong sự hốt hoảng lúc bà và ông chồng nghe tôi kể lại những biến cố vừa xảy ra, bà đã quên tắt máy. Cuộn băng ghi âm này đã được dùng làm bằng cớ vào tháng 9 năm 1963 trước Ủy Ban Việt Nam của Liên Hiệp Quốc, kèm theo với lời khai danh dự chứng thật nguyên bản của giáo sư Krainick.”
Nhận xét: Có lẽ những chứng từ của giáo sư người Đức được coi như có giá trị khả tín nhất, vì ông là người ngoại quốc khách quan hơn. Đối với một số Phật tử thời đó, ông chẳng những là một nhân chứng hàng đầu mà còn là người ân nhân số một của biến cố 1963. Vào ngày 14-4-1964, ông E. Wulff được tiếp đón nồng nhiệt khi trở lại Huế sau ngày đảo chính. Người ta đã dành tất cả cái vinh dự ấy cho ông như một người bạn của Huế. Ông đã được các Thượng Tọa Thích Trí Quang và Hoà Thượng Thích Đôn Hậu đón tiếp với hàng rào người đứng hai bên. Vì vậy, ông mới được mời ra làm nhân chứng vào tháng 9, 1963 với cuốn băng ghi kể lại biến cố với ông bà GS Krainick, trước Ủy Ban Việt Nam của LHQ. Nhưng thử so sánh hai bài tường thuật của ông xem sao.
- Thứ nhất, có một sự lầm lẫn, nếu không được giải thích sẽ gây ra hiểu lầm. Có lúc ông nói là Tý có lúc là Tôn Thất Kỳ. Có sự khác biệt đổi tên như thế vì Tôn Thất Kỳ không muốn để lộ tên mình ra nên ông Wolff đã phải gọi tránh ra như thế?
-Thứ hai, ông viết khi vừa đến thì đã nghe một loạt súng, liền sau đó xe thiết giáp kéo tới. Chắc ông viết lầm, phải đợi xe thiết giáp tới rồi mới bắn được.
- Thứ ba, ông còn có thể nghe và đếm được có khoảng 10 phát đạn đại bác (chắc là đại liên?) bắn đi. Cái này phải hỏi chuyên viên vũ khí, có thể đếm được đạn đại liên bắn đi không? Có chỗ ông viết: “nhìn thấy 5 xe thiết giáp tiến tới rồi nhả đạn”. Thật sự trong cái tình thế căng thẳng và có thể đi đến rối loạn, thật khó có thể có những ghi nhận thật chính xác được như thế. Những trắc nghiệm tâm lý đưa ra những hoàn cảnh giả, rồi yêu cầu được trả lời đã nhìn, nghe, nhớ gì. 90 phần trăm người được trắc nghiệm đã không thể trả lời đúng như sự việc đã xảy ra.
- Thứ tư, và nếu như lời ông tường thuật ở đoạn ông trích ra đây, ông và Tý thấy tuần xa là bắt đầu sợ và rủ nhau nhảy qua hàng rào đài phát thanh, đứng sang bên kia đường để nhìn về phía đài. Khi có tiếng súng nổ thì còn chạy núp vô một đường hẻm gần đấy. Nhưng đọc đọan ông mô tả thì như thể ông là một quan sát viên, hay một quan khách, đứng bàng quan và bình tĩnh, đứng gần tuần xa có mấy thước, nghe và đếm được 10 phát đạn, thấy hết hiện trường.
Tôi chỉ hỏi thật, ông đứng ở đâu? Không trả lời được thì ông chỉ là một tên phét lác!
- Thứ năm, ông kể được nghe qua một người bạn tên Paul Miller cho biết gặp Đặng Sỹ và Đặng Sỹ cho biết phải biến đi, vì sắp có cảnh dẹp loạn và cảnh giết người. Cứ tin vào chứng từ của ông bác sĩ thì Thiếu Tá Đặng Sỹ đã được lệnh trước chẳng những dẹp lọan mà còn có bổn phận phải tàn sát dân chúng đi biểu tình. Chứng cớ này khá là quan trọng vì có sách lược tàn sát đồng bào Phật Tử tối hôm đó? Ông Wolff phải ra làm chứng về điều này và xác nhận lại một lần nữa câu nói của ông. Nếu ông xác nhận Đặng Sỹ có nói như thế thì vụ án Đặng Sỹ rất đơn giản vì có lời giải đáp.
Rất tiếc, ông đã rời Việt Nam sớm hơn một tháng trước khi vụ án Đặng Sỹ được đem ra xét xử.
- Thứ sáu, theo ông các trẻ em bị thảm sát vì vượt hàng rào đài phát thanh cao khoảng 1m50. Như vậy, thay vì bị chết ở sát cạnh đài phát thanh thì nay chết ở hàng rào đài phát thanh. Đây là một vấn đề cần đặc biệt lưu ý. Chứng cớ này của ông không đứng vững được vì vi phạm luật hiện trường. Một điều vẫn ám ảnh tôi mãi. Tại sao nạn nhân chỉ là trẻ con và thanh thiếu niên? Nếu đạn đại liên bắn như thế thì chẳng những các em chết và người lớn cũng chết không miễn trừ?
- Thứ bảy, ông là người thứ nhất, trước cả bác sĩ Lê Khắc Quyến có đặc quyền được giảo nghiệm xác chết. Tôi có đem truyện này hỏi các bác sĩ thì họ cho rằng nếu không phải bác sĩ chuyên môn về giảo nghiệm tử thi thì không đủ tư cách để có thể xem xét và quyết đoán về các vết thương. Họ không thể nào xác định được một vết thương do đạn, hay do chất nổ? Về điểm này có thể nói rằng cho dù có chứng tử giảo nghiệm đi nữa, không bị cưỡng buộc đi nữa, chừng từ đó cũng khó có sự giảo nghiệm kỹ càng và chính xác. Một bác sĩ thường, không chuyên ngành, không có cách gì phân biệt được một vết thương do chất nổ lựu đạn hay plastic, hay do đầu đạn, v.v.. Thật không dễ đâu? Dầu vậy thì đây là một bằng chứng vô cùng quan trọng, bởi vì trong nhiều trường hợp, nhân chứng duy nhất có thể truy lùng ra tội phạm lại chính là xác chết. Xác chết biết nói, biết tố cáo. Mặc dù ông không phải bác sĩ chuyên khoa về giảo nghiệm xác chết, mặc dù dưới ánh nến lù mù không soi sáng đủ và mặc dù thời gian chắc cũng không cho phép ông ở lâu để giảo nghiệm, đo đạc các vết thương sâu hay rộng để biết đích xác vết thương do chất nổ gì gây ra. Ông đã khẳng định là: quan sát kỹ, ông cho rằng chắc là do đạn đại liên bắn ra làm bay cả sọ và văng óc ra ngoài. Ông còn ghi thêm là do chiếc xe có bảng hiệu Ngô Đình Khôi bắn ra nữa. Có lúc ông nói có 5 xác bị bắn nát đầu văng óc, nhưng từ chân đến đầu còn nguyên vẹn. Đọan sau, ông nói ngược lại là 7 xác chết tan hoang, nát bấy, hoàn toàn nát bấy.
Còn nguyên vẹn và nát bấy đã hẳn phải khác nhau? 5 xác và 7 xác đã hẳn cũng khác nhau?
Quý vị không tin cứ việc đọc lại. Không thể giảo nghiệm khơi khơi thế được? Chắc ông chưa từng được xem Bao Công xử án.
Kết luận: các nạn nhân chết là do đạn đại liên từ xe thiết giáp Ngô Đình Khôi bắn ra.
Hai bản văn mà nội dung do một nhân chứng viết lại có nhiều chỗ phản lại nhau từng chi tiết một, không có chi tiết nào trong hai bản văn giống nhau đến độ có cảm tưởng do hai nhân chứng viết lại chứ không phải một người.
Tôi chỉ xin giữ một ý là về hiện trường và chất nổ. Thói thường chỉ có trẻ con mới xúm xít chung quanh đài phát thanh, còn người lớn, đứng xa xa và ở dưới. Trong phần trích dẫn cho thấy đây là một vụ nổ plastic và do bàn tay Hoa Kỳ gây ra. Sự thật ở chỗ nào?

TT. Thích Trí Quang
Thật ra, TT Trí Quang đã không trực tiếp viết về biến cố đài phát thanh Huế, nhưng do ông kể lại và ủy thác cho Thái Kim Lan với sự cho phép của ông. Vì thế, phần tài liệu này được kể là chính thức. Chứng từ này được kể là quan trọng và có tầm mức cao nhất về mức độ khả tín do một vị lãnh đạo tinh thần, là linh hồn của biến cố đài phát thanh Huế.
TT. Trí Quang kể:
“Đến giờ, tôi đích thân đi với thầy Mật Nguyện xuống đài phát thanh. Ông quản đốc nói có lịnh không cho Phật Giáo phát thanh, xin các thầy biết cho đây là việc ngoài quyền hạn của tôi. Tôi yêu cầu mời ông Tỉnh trưởng xuống giải quyết tại chỗ. Bấy giờ gần tối. Phật tử đứng nghẹt sân đài phát thanh, ngoài đường và cầu Trường Tiền. Ông Tỉnh trưởng đến mới cùng thầy Mật Nguyện, tôi và ông Quản đốc, đứng lên chỗ cao, chưa kịp nói gì thì phía ngoài vòi rồng phun nước rất mạnh, kế đến hai chiếc chiến xa tiến vào đại liên và lựu đạn cùng nổ. Một số Phật tử ở góc sân trên của đài phát thanh, chỗ gần chúng tôi đứng bị ném lựu đạn tàn sát. Họ là các Thánh tử đạo đầu tiên của cuộc vận động 1963.
Sau đó, được biết trong hai chiến xa xung kích, một chiếc được mật lệnh giết tôi. Kẻ thi hành là Trung Úy Kỳ. Khi chĩa súng bắn tôi thì bị một đội viên cùng xe đánh bật tay lên. Chiếc khác được lệnh tiến bắn thì không bắn, vì sợ làm chết lây thầy Mật Nguyện và các ông Tỉnh trưởng, quản đốc. Sau bị trách phạt rằng sao không bắn luôn cả ba người ấy.
Súng ngưng nổ, chiến xa rút liền. Tên Phong, cảnh sát và tên Uyên, quân cảnh cùng một số lính, ăn mặc như xung trận vào đài phát thanh mặt đầy sát khí, nhìn chúng tôi nói dõng dạc: “Việt Cộng đột nhập, ném lựu đạn chết người" Và nhìn tôi muốn bắn. Tôi nói: “còn các ông thì yểm trợ cho Việt Cộng. Đúng là gà đẻ gà tục tác".
Nhận xét; Qua lời kể này, có nhiều sự việc phản bác lại tất cả những nhân chứng và chứng từ vừa nêu trên:
-Thứ nhất, TT. Trí Quang, Mật Nguyện, ông Quản đốc, ông Tỉnh trưởng không ở trong đài như nhiều người xác nhận, chẳng hạn theo lời kể của ông Nguyễn Khắc Từ, huynh trưởng gia đình Phật tử, cho rằng ông có mặt từ đầu, luôn ở bên cạnh thày Trí Quang. Các vị ấy đứng ở chỗ cao là phải, để quan sát và lượng định tình hình đám dân chúng đang ở dưới như ngòi thuốc nổ, có thể nổ bất cứ lúc nào.
-Thứ hai, Rất quan trọng là hiện Trường. Phải xác định rõ Hiện Trường. Hiện trường là chỗ góc sân trên của đài phát thanh, chỗ gần chúng tôi, bị ném lựu đạn tàn sát. Có nghĩa hiện trường ở sát cạnh đài phát thanh, là góc sân trên, như thế phản bác cái giả thiết của bác sĩ E. Wulff cho rằng các em bị bắn chết ở hàng rào đài phát thanh cao 1mét 50. Hiện trường không phải cách xa đài cỡ 50, 60 mét. Các em tò mò phải tiến tới sát đài. Làm sao các em bé trèo qua được cái hàng rào sắt nhọn cao 1 mét 50 được?
-Thứ ba, hiện trường ở góc trên đài phát thanh, nghĩa là có bậc tam cấp để đi lên. Điều đó cũng phản bác tất cả những chứng từ như của ông Vũ Ngự Chiêu và một số người khác cho rằng có hai em bị tuần xa cán chết dập đầu, nát bấy. Có nghĩa là khẳng định tuần xa không leo lên bực cấp đài phát thanh để cán chết các em được. Người đứng đông dày đặc như thế, nó cũng không thể nhúc nhích đến sát chân đài phát thanh được?. Và nếu nó cán chết các em thì trước tiên, nó đã phải cán bừa lên những đồng bào Phật tử người lớn đứng ở dưới sân đài phát thanh. Nên nhớ là không có người lớn tuổi nào là nạn nhân của biến cố đài phát thanh. Yếu tố chỉ có trẻ con dễ đưa đến ý tưởng là các em vì tò mò thường đứng gần sát đài phát thanh. Điều này hoá giải ý tưởng của phần đông dân chúng cho rằng các em bị các tuần xa cán chết.
-Thứ tư là các em bị đạn và lựu đạn bắn chết. Vấn đề này là vấn nạn gay go nhất, xin được bàn tiếp theo ý kiến của Trung Tướng Tôn Thất Đính và lúc Đặng Sỹ ra toà.
-Thứ năm theo Thượng Tọa là có một âm mưu muốn ám sát TT Trí Quang với danh tính hẳn hoi. Đó là Trung Uý Kỳ và đồng bọn. Nhưng việc không thành chỉ vì có người lấy tay cản đồng thời sợ chết lây lan sang nguời khác. Chỉ rất tiếc là TT Trí Quang đã không chỉ đích danh cái người định ám sát Thượng Tọa. Nhưng chắc là phải giữ vai trò cao hơn Thiếu Tá Đặng Sỹ và ông Tỉnh trưởng? Người đó là ai? Có thể chỉ còn có mình TT Trí Quang có câu trả lời? Rất tiếc ông lại không nói. Đến lúc ra tòa, tôi đi tìm mãi không thấy Trung Uý Kỳ đâu? Chắc đã được TT Trí Quang bỏ qua.
Đã biết được rõ âm mưu như thế, hẳn nhiên TT Trí Quang cũng biết rõ ai là kẻ chủ mưu ra lệnh? Và cái kết quả thảm sát 8 trẻ em vô tội? Dù gì đi nữa thì TT cũng nên nói rõ ra một lần để rửa cái vết lõm dính máu trên đài phát thanh Huế cho oan hồn các em chứ? Không ra tòa đã đành? Nhưng không nói, im lặng lại là chuyện khác?

Phần 2: Vụ án Thiếu Tá Đặng Sĩ trước toà án Cách Mạng
Biến cố đài phát thanh Huế xảy ra đêm 8-5-1963. Từ đó đưa đến sự sụp đổ chế độ TT Ngô Đình Diệm ngày 1-11-1963. Nhưng vụ án Đài phát thanh Huế mãi đến 2-6-1964 mới được đưa ra xét xử tại Sài Gòn. Tức là hơn một năm khác với vụ án Trung Tá Phan Quang Đông và ông Ngô Đình Cẩn bị đem ra xét xử 19-5-1964 và lãnh án tử hình.
Xét sử sau quả thực có cái lợi của nó.
Thời gian càng kéo dài ra thường có lợi cho bị can, tránh được những sôi nổi khi sự cố còn nóng hổi. Thứ hai, phạm trường là Huế, trung tâm đầu não của biến cố 8-5-1963, cứ sự thường tội đâu xử đấy. Nhưng cũng không ai cấm được tòa án thay đổi chỗ xử án để cho toà án được độc lập hơn, tránh sức ép của dư luận quần chúng. Viện Chưởng lý tòa án quyết đinh xử ở Sài Gòn để tránh ‘Sợ gây hoang mang dư luận’. Theo nguyên tắc có 3 trường hợp: Sử tại nơi xảy ra phạm pháp. Toà án tại nơi can phạm bị bắt. Toà án tại nơi can phạm bị giam giữ.
Xử Đặng Sỹ là chuyện nhỏ, cân bằng hai thế lực tôn giáo trong lúc này là chuyện lớn. Các chính phủ quân nhân đều quá yếu nên phải di giây chứ biết làm sao? Đặc biệt là chính phủ Nguyễn Khánh.
Trước ngày Đặng Sỹ ra toà một tuần có bài báo trên tờ Lập Trường: Đồng bào Huế và Trung Việt nghĩ sao? Đặng Sỹ ra tòa tại Sài Gòn. Đối với dư luận xứ Huế: Vụ thảm sát tại Đài phát thanh chỉ là bước cuối cùng của cả một chương trình tận diệt tôn giáo. Dân chúng đã quá biết điều đó rồi. Lúc xử Ngô Đình Cẩn, tất cả các báo Sài Gòn đều viết rằng nhân dân đã xử ông Cẩn trước khi tòa án xử. Đối với Đặng Sỹ cũng vậy, nhân dân đã xử rồi chứ đâu có chờ đến tòa án Cách Mạng?
Vì thế Đặng Sỹ trước mắt người dân xứ Huế đương nhiên là một tội phạm và hình phạt dành cho ông là một án tử hình. Rõ ràng như thế, mang xe tăng đến trước đài phát thanh, rồi ùm ùm, súng nổ, lựu đạn nổ rầm trời. 8 mạng trẻ con chết thê thảm. Mọi người dân Huế, nhất là giới Phật tử đêm đó đều có dịp quan sát thấy tận mắt từ đầu đến cuối. Chối cãi đi đằng nào?
Vậy mà hơn 50 năm, chúng ta vẫn phải bắt buộc nhìn lại.
Nhưng nhiều người muốn truy đến cùng đằng sau Đặng Sỹ là ai? Ai ra lệnh? Một phóng viên của tờ Lập Trường, ngoài Huế đã mập mờ đưa ra mà như không đưa ra:
“Chúng tôi không muốn dành quyền phán xét của tòa án như một hai tờ báo ở Sài Gòn đã làm, vì vậy chúng tôi không muốn bắt chước họ nêu tên nêu tuổi chánh phạm ở đây. Tên tuổi đó không phai mờ trong lòng dân chúng Huế được đâu? Không bao giờ".
(Báo Lập Trường, tháng 6-1964)
Theo như câu nói trên thì dân chúng Huế biết rõ, biết chánh phạm là ai rồi?
Cuối cùng, chính quyền nghiêng về giải pháp đem Đặng Sỹ về Sài Gòn xử. Chỉ tiếc một điều là Toà án Cách mạng không xử Đặng Sỹ tại Huế, là nơi Đặng Sỹ phạm tội, để đồng bào, những người đã nhìn thấy sự thật trước mắt, sự thật ngày hôm nay vẫn còn hiển hiện trước mắt, tự mình lắng tai nghe thử những người xử án, nhân chứng và bị cáo nói gì trước tòa án về những sự việc đã xảy ra.
“Cho nên thật ra không phải người ta sợ hắn chết mà người ta chỉ sợ hắn không chịu im lặng để chết mà thôi. Chú thử nghĩ nếu ra giữa tòa mà hắn cà rịch cà tang khai hết những thượng lệnh mà hắn đã nhận để thi hành thì có tọa họa nó ra hết không. Người ta đang la làng lên là vì rứa….. Nếu phải chết, tội chi mà y chết một mình, y sẽ khai tùm lum ra hết. Nếu không thì phải tìm cách cho y đừng nói. Chú học lịch sử còn nhớ vụ Nuremberg không? Biết bao nhiêu tội phạm chiến tranh tự tử trong ngục trước trước khi bị đem ra xử… Mình lo cho Đặng Sỹ là vì rứa.”
(Báo Lập Trường tháng 6-64)
Vì thế, việc xử Đặng Sỹ đã làm nhiều người thất vọng đến độ nghĩ rằng:
“Trước hiểm họa Cộng Sản, trước viễn tượng Cách Mạng sụp đổ, lòng tin sụp đổ, những chữ của chúng tôi đang chứa đầy tủi nhục của nhân dân xứ Huế, của những người đã vùng dạy làm cách Mạng từ ngay sau đêm thảm sát Đài phát thanh, để rồi ngày nay thấy mình bị phản bội".
(Lập Trường 6-6-64)
Xử không khéo là lòng tin vào cách mạng sụp đổ và cảm thấy bị chính quyền phản bội?
TT Trí Quang đã đưa ra một liều thuốc giải vừa để gỡ rối vừa để trấn an dư luận, ông lúc đó đang ở Sài Gòn lại xin khoan hồng cho Đặng Sỹ đồng thời có đánh một công điện ra Huế mà nội dung như sau:
“Chúng ta chủ trương khoan hồng cho ông ấy thì không cần quan tâm đến những chi tiết khác làm gì.”
Tha thì không thể tha mà tội chết cũng không thể chết. Đó là cái thế của Đặng Sỹ. Nhưng tôi tự hỏi với tư cách gì TT. Trí Quang có thể khoan hồng cho Đặng Sỹ? Và tại sao không khoan hồng cho Phan Quang Đông và Ngô Đình Cẩn?
Có nghĩa là thực sự đây là một vụ án chính trị. Và dựa trên sắc luật 4-64 ngày 18 tháng 2, năm 1964 thiết lập tòa án Cách Mạng dưới thời tướng Nguyễn Khánh. Luật này có “hiệu lực hồi tố”. Và vì thế đã có một danh sách 267 những bị can phải ra trước tòa án Cách mạng. Trong đó có những vụ án nổi bật như Phan Quang Đông (cơ quan đặc vụ và tình báo) và Dương Văn Hiếu (Trưởng Đoàn mật vụ)
Xin trích dẫn lời Lý Chánh Trung trên tờ Tìm hiểu về tình hình lúc đó với nhan đề “Lọan để trị”
“Vì rằng từ mấy tháng nay, thành tích duy nhất của ông Khánh sau ngày chỉnh lý bị đạp đổ, người dân miền Nam đã nếm được cái thú vị của Tự Do xuống đường, tự do đập lộn, chém giết, nói láo, bêu xấu. Muốn gì cứ việc xuống đường. Xuống đường là thắng trận. Hoan hô dân chủ. Thật không có cái chính quyền nào nhiều thiện chí bằng cái chính quyền này: xum xoe chạy từ nhóm này đến khối kia, vuốt ve hứa hẹn để làm vừa lòng tất cả mọi người.”
Nhưng tội thay, không ai vừa lòng cả.

Nguyễn Văn Lục

http://www.dcvonline.net/

___________________

Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p6)

Người còn sống là nhà sư Thích Trí Quang. Ông có đảm lược chính trị, ông là người có đủ dũng khí làm khuynh đảo cả một chế độ đem lại cái chết thảm khốc cho ba người. Chỉ có ông là người biết và nắm giữ nhiều sự thật, bí mật.
Khung cảnh phiên tòa xử án

Bình thường, những phiên tòa như thế này sẽ có đông người đến nghe lắm. Như trong phiên tòa xử ông Ngô Đình Cẩn ở ngoài Huế:
“Chưa tới 8 giờ sáng, còn hơn một giờ nữa mới họp. Nhưng chắc đã từ lâu một đám đông cả mấy ngàn người chen nhau đứng dưới mưa phùn gió lạnh, trên các đường chung quanh tòa án. Tất cả mọi người, già trẻ, bé, lớn, người nào cũng có vẻ mặt đầy căm thù.
(Võ Văn Quan, “Luật sư, Nghề hay Nghiệp? Vài cảm nghĩ và kỷ niệm về một thời hành nghề. Vụ án Ngô Đình Cẩn” hay là “Từ cố vấn chỉ đạo thành tử tội” Độc quyền của tờ Ngày Nay, 1992).
Sau đó, vụ xử đã được đưa vào Sài Gòn một cách kỳ cục. Không khí Sài Gòn khác hẳn:
“Nhưng khác hẳn quang cảnh căng thẳng, sôi sục không khí đấu tranh chung quanh Toà án Huế lúc trước, công chúng Sài Gòn chỉ đứng thưa thớt trên các đường gần pháp đình và chỉ có vài người hiếu kỳ mà thôi.”
Khung cảnh pháp đình Sài Gòn sáng 2-6-1964 là một quang cảnh vắng lặng, khác hẳn hôm xử ông Ngô Đình Cẩn. Trong pháp đình chỉ có một số ký giả và, đội quân danh dự cùng một vài thân nhân và một vài phật tử. Có thể dân chúng đã quen thuộc, đã hết hào hứng như hồi xử ông Cẩn. Điều này chỉ có lợi cho phía bị cáo là Đặng Sỹ.
(Báo Lập Trường sô 6/6/1964)
Ông Chưởng lý cho biết nhân vật quan trọng hàng đầu cần ra làm nhân chứng là TT. Trí Quang. Nhưng TT. Trí Quang đã từ chối không ra làm nhân chứng trước tòa buộc tội bị can. Trả lời ký giả báo Dân Ta, TT Trí Quang cũng xác nhận việc này. Không biết việc từ chối như thế có hợp pháp không? Sự từ chối của một nhân chứng quan trọng như TT thì kể như cái toà án đó giá trị pháp lý còn lại là cái gì? Sau này TT Trí Quang cũng từ chối ra trước toà án Mặt Trận xử 26 can phạm trong vụ chính biến Đà Nẵng mà chính TT nhận là người lãnh đạo và trách nhiệm?

Sài Gòn, 16 Oct 1967, Thượng Toạ Thích Trí Quang. Nguồn: Image by © Bettmann/CORBIS

Thật sự thì miền Nam trong những tỉnh trạng như vậy chỉ cho thấy tòa án thiếu một thẩm quyền pháp lý, thiếu cái uy quyền thượng tôn pháp luật của tòa. Uy quyền quốc gia không còn nữa.
Đặc biệt thân nhân của dân sự nguyên cáo, tức gia đình các nạn nhân trong biến cố đài phát thanh gần 20 người, nhưng không có ai lên tiếng đòi bồi thường cho gia đình họ và để tùy tòa quyết định.
Và theo phái viên Từ Nguyên, đại diện tờ Lập Trường ngoài Huế, họ, những đại diện các gia đình nạn nhân là những người đau khổ nhất và ngày hôm nay đang là những người sung sướng nhất, vì đã hy sinh cho chính pháp.
Phiên tòa bắt đầu 9 giờ, nhưng phải đợi đến gần nửa giờ sau, bị cáo Đặng Sỹ mới tới. Đặng Sỹ bước vào với binh phục sĩ quan cấp tá đàng hoàng, lúc đó phiên tòa mới bắt đầu.
Có một điều kỳ ngộ, chỗ cái ghế gỗ dành cho bị cáo mà Đặng Sỹ ngồi thì trước đây ông Cẩn đã ngồi cùng ở một chỗ ấy. Cùng một phiên tòa của tòa án cách mạng, cùng là những người liên quan đến chế độ ấy, cùng có thể nhận một bản án tử hình.
Nhưng thái độ hai người có khác.
Ông Cẩn ngồi đó không nói gì. Im lặng từ đầu đến cuối. Còn ông Đặng Sỹ tỏ ra bực tức và có dịp được nói là nói thả dàn. Cứ được hỏi đến là ông có dịp được phân vua hoặc nói về những thành tích chống Cộng của mình.
Vấn đề thủ tục pháp lý
Mở đầu phiên xử, luật sư Tân đã nêu ra khước biện vô thẩm quyền của tòa án cách mạng đối với bị cáo. Đây thật ra chỉ là “bốn món ăn chơi” của thủ tục tòa án mà luật sư thường nêu ra và thường cũng bị ông chánh thẩm bác bỏ ngay tử đầu. Bởi nếu khước biện vô thẩm quyền của tòa án được chấp nhận thì tự nó đã vô hiệu hóa vụ án rồi.
Tôi chẳng muốn đi vào chi tiết, chỉ biết rằng Sắc luật 4-64 khi thiết lập tòa án cách mạng có định như sau:
“Mưu sát, tội giết người đối lập về chính trị, việc tra tấn cho đến chết’’ Theo luật sư Tân, các nạn nhân là Phật tử, không phải người đối lập. Vậy không thuộc thẩm quyền tòa án cách mạng. Sau đó có cãi qua, cãi lại. Chánh thẩm đình nghị án, vào tham khảo. Và lúc 10 giờ 15, tòa tái nhóm và ông chánh thẩm bác khước biện vô thẩm quyền do Ls Tân nêu lên.
(Lập Trường, số 6/6/1964.)

Lời khai trước tòa của Đặng Sỹ
Ông chánh thẩm hỏi bị can:
“Bị can phạm tội cố sát với trường hợp gia trọng, vì trong khi binh lính giải tán đồng bào tại đài phát thanh đã ném hay cho ném lựu đạn làm chết 8 đồng bào, bị can có nhận tội không?”
Dĩ nhiên là không. Sau đó thì bị can đã trả lời, tóm lược như sau:
“Bị bắt từ ngày 24 tháng 11, 1963. Bị biệt giam tại Nha an ninh quân đội trong phòng tối. Bị tra vấn ngày đêm và bị ép buộc phải khai ra là do Giám Mục Ngô Đình Thục và hàng giáo phẩm ra lệnh cho tôi đàn áp tôn giáo. Xin Toà ghi nhận cho tôi chỉ là cấp thừa hành, chế độ nào cũng phải thừa hành lệnh cấp trên của tôi sai phái.
Trước hết ông Tỉnh Trưởng áp dụng dụ 57A trưng dụng tôi, rồi ông Tư lệnh vùng.
Tôi không phạm tội cố sát vì tôi chỉ nhận lệnh của cấp trên. Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm đã cung cấp phương tiện cho tôi. Lực lượng tiểu khu của tôi chỉ có 18 người sĩ quan và quân nhân.
Đêm 8 tháng 5, 1963, Tôi đã gọi điện thoại cho Cảnh sát tăng cường. 20 giờ, họ cho biết không đủ quân số. Tôi cũng đã gọi cho ông Tỉnh trưởng 5 lần, không gặp. 8 giờ 30 tối, tôi tới văn phòng ông Cẩn, có Đại uý Phu, phụ tá tiểu khu trưởng. Sau đó gặp ông Đẳng, tỉnh trưởng, ông Đạm, Ông Trọng, Ông Vang.
Nhận được điện thoại của ông Ngô Ganh, quản đốc đài phát thanh yêu cầu can thiệp gấp, đồng bào tới đông đảo. Ông Tỉnh trưởng nói đồng bào không trật tự, yêu cầu Thiếu tá xử dụng quân đội giải tán. Tôi xin giấy trưng dụng. Ông Tỉnh trưởng nói, yêu cầu Thiếu Tá giải quyết gấp kẻo đài phát thanh bị phá, ngày mai sẽ có giấy điều chỉnh. Tôi cũng gọi cho Đại Tá Đỗ Cao Trí, tư lệnh sư đoàn 1. Đại tá Trí không có mặt. Đại tá Lê Quang Hiển phụ tá yêu cầu xin lệnh tư lệnh vùng.
Sau khi trình tư lệnh, Thiếu tướng có nói: quần chúng tự động biểu tình, xâm phạm công quyền, Thiếu tá có bổn phận đem binh sĩ giải tán và ông cấp cho một đại đội BB ở trung tâm Phú Bài.
Tôi cấp phát lựu đạn MK3, lựu đạn này tôi đã xử dụng để huấn luyện cho thanh niên chiến đấu có sự chứng kiến của Đại tá Trí. Lựu đạn Mk3 không gây chết người, thường dùng cho nổ để huấn luyện cho Thanh niên chiến đấu, thanh niên Nam Nữ. Tôi đã dùng một chiến xa Bảo An đi trước mở đường, binh lính theo sau. Xe đến cách quân trấn 50 thước, bị chặn đường.. Tôi ra lệnh cho xe tiến lên, cán xe mo bi lét. Rồi nghe có hai tiếng nổ lớn. Tôi tưởng bị Việt Cộng tấn công. Sau đó tôi bắn ba phát súng lệnh chỉ thiên, nhưng dồng bào náo loạn cả lên, binh sĩ cũng chẳng nghe thấy lệnh của tôi.”
Nhưng ai ra lệnh? Đặng Sỹ khai không nghe thấy lời kêu gọi của ông tỉnh trưởng. Ông còn la lớn, hai tài xế Ngọc và Khải, sau ngày Cách mạng đã bị bắt giam 3 tháng, rồi được thả và nay còn được thăng chức. Như vậy họ được thăng chức vì những lời khai của họ?
Đặng Sỹ còn nhắc lại phản đối trước tòa về việc giam cẩm thiếu nhân đạo và thẩm vấn viên đã buộc: phải khai nhận có ném lựu đạn, hoặc do lệnh TGM Ngô Đình Thục ra lệnh cho y đàn áp Phật giáo. Chưởng lý cho rằng hầu hết các nhân chứng đều khai trước tòa là bị cáo bắn trước ba phát súng, rồi mới có hai tiếng nổ. Chưởng lý cũng cho rằng bị cáo không được mang vấn đề tôn giáo ra đây, bị cáo theo tôn giáo nào không thành vấn đề.
Cả phòng như im lặng.
Theo ông chưởng lý, đa số các nhân chứng trong phiên xử này đều khai bị cáo có bắn 3 phát súng lục trước khi có tiếng nổ lớn. Riêng chỉ có mình bị cáo khai có hai tiếng nổ lớn trước khi bắn ba phát súng. Ông Chưởng lý nói tiếp, công tố viện đã đưa ra một số nhân chứng tối đa, không lẽ các nhân chứng đều có thù oán với bị can cả sao?”
(Tóm lược, Lập Trường, số 6 tháng 6, 1964)

Lời khai của các nhân chứng
Tướng Lê Văn Nghiêm
“Có lệnh trưng dụng thì tỉnh trưởng hoàn toàn trách nhiệm không cần hỏi ý kiến quân đội hay tôi. Nhưng tôi cũng có căn dặn tránh đổ máu, dùng các biện pháp xịt nước.”
Tướng Nghiêm cũng liên lạc với Đại Úy Thiết, chánh văn phòng đại diện ở Huế để ông này liên lạc với Đặng Sỹ. Ông nói tiếp,
“Thiếu tá Sỹ có quyền xử dụng đại đội cơ giới ở Phú Lộc vì thuộc Bảo An. Riêng đại đội ở trung tâm huấn luyện Phú Bài thì thuộc quyền Bộ Tổng tham mưu chứ không thuộc quyền tôi.”
Cứ như lời khai của tướng Nghiêm thì xem ra, ông chẳng có tý quyền hành gì, mặc dầu là tư lệnh quân đoàn. Và vì thế, ông hoàn toàn không có trách nhiệm gì trong vụ nổ ở đài phát thanh? Ông ra tòa với tư cách nhân chứng chứ không phải một liên đới trách nhiệm với bị cáo, với tư cách chỉ huy cao cấp. Tuy nhiên, trên thực tế, ông vẫn ra lệnh miệng cho Đặng Sỹ, vẫn liên lạc với Đại Uý Thiết, vẫn liên lạc với Đại tá Hiển. Dĩ nhiên vẫn có những lệnh miệng, hay khuyến cáo.
Mà trong nhà binh, lệnh miệng đã đủ là bằng cớ chưa?
Dưới mắt kẻ bàng quang thì đây là một cấp chỉ huy bất xứng, trốn trách nhiệm, đổ trách nhiệm lên đầu một cấp thừa hành.
Ông Nguyễn Văn Đẳng, tỉnh trưởng
Sự việc xảy ra ở đài phát thanh Huế rõ như ban ngày như một cộng với một là hai. Ông đã nói như thế. Tối hôm đó, tôi đến văn phòng chỉ đạo thì có Trưởng Ty Cảnh sát, Trưởng ty Công an cho biết đồng bào phật tử đang vây đài phát thanh. Tôi nóí:
“Nếu có vậy, đồng ý khi cần giải tán. Tôi thấy các ông ấy sát khí đằng đằng nên tôi thấy cần nhắc là cần có binh sĩ cải trang để giải tán biểu tình. Mọi người giải tán.”
Có một chi tiết khá quan trọng mà Thiếu Tá Đặng Sỹ nêu ra là lệnh trưng dụng của Tỉnh Trưởng lúc đó có ông Hồ Đắc Trọng làm chứng. Ra tòa, ông Hồ Đắc Trọng khai là, tuy có mặt ở đó, nhưng không nghe là ông Tỉnh Trưởng có ra lệnh hay không? Nhân chứng phủ nhận? Vậy lời khai của Đặng Sỹ trở thành vô dụng? Nhưng Hồ Đắc Trọng có khai là có gặp ông Cẩn, ông Cẩn có nói với ông rằng:
“Biểu tình thì phải dẹp, hỏi ông Tướng, ông đại biểu chính phủ mà làm.”
Lời khai của Hồ Đắc Trọng có thể xóa bỏ nghi ngờ ông Cẩn là người ra lệnh ngầm không? Mặc dầu lúc này có khai gì thì ông cũng đã chết rồi?
Sau đó, ông Tỉnh Trưởng khoe thành tích làm tỉnh trưởng của ông. Điều đó xin lược bỏ.
Những điều sau đây qua lời khai của ông khá phù hợp với lời kể lại của TT Trí Quang.
“Tôi chỉ nói Đặng Sỹ chuẩn bị, chứ không nói trưng dụng. Không phải là tôi có ra lệnh bằng miệng mà tôi trốn trách nhiệm, nhưng bị can cố đẩy trách nhiệm cho tôi. Sự thật là vậy. Theo ông khai trước toà, ông và thày Trí Quang và Mật Nguyệt đang bàn cãi để tìm giải pháp dung hòa thì có tiếng ồn ào. Cả ba đều ra ngoài thì thấy xe tăng tới, xe xịt nước tới. TT Trí Quang ra trước Micro kêu gọi anh em công lực ngưng xịt nước, rồi thầy nhờ tôi nói lại và tôi nhân danh Tỉnh trưởng đừng xịt vì dàn xếp sắp xong. Nói hai câu đó xong, súng nổ và lựu đạn nổ.”
Ông có hỏi tại sao lại không nghe thấy? Xe của Đặng Sỹ đậu cách đài phát thanh khoảng 50 chục thước và trong trường hợp ấy có thể không nghe thấy. Chính ông Tỉnh trưởng cũng chỉ đoán là Đặng Sỹ có đứng chỉ huy trên xe ấy qua cái dáng thôi.
Ít ra về điểm này cho chúng ta thấy hai con đường đi tìm sự thật: Hiện trường là mấy nhân chứng đứng bên ngoài đài phát thanh vả có thấy súng nổ, lựu đạn nổ.
Mặc dù ông Tỉnh trưởng là cấp chỉ huy trực tiếp của Đặng Sỹ, ông cũng chỉ ra hầu toà với tư cách nhân chứng thôi.
Như vậy chỉ có mình Đặng Sỹ là tội phạm.
Nhưng qua hai lời nhân chứng vừa kể, người ta thấy trước khi vụ nổ đài phát thanh, Đặng Sỹ có trình cấp thẩm quyền, có ngồi lại bàn thảo, có nhận lệnh miệng, có được cung cấp phương tiện cùng với Chỉ huy Cảnh Sát và Công an cũng như tiểu khu phó. Nhưng trước sau, chỉ có mình Đặng Sỹ lãnh án. Trong một vụ việc quan trọng như thế này, có sự điều động nhân sự, có nhận lệnh lạc theo hệ thống quân giai, có hằng trăm vừa sĩ quan, vừa binh sĩ.
Vậy mà chỉ có một người lãnh án?
Ông Nguyễn Văn Kịch
Có lẽ lời khai của Nguyễn Văn kịch là buồn cười và lố bịch nhất. Anh Kịch là tài xế của Đặng Sỹ đã khai là khi gặp mụ Luyến, mụ đã căn dặn Đặng Sỹ như thế này:
“Cố gắng làm tròn phận sự nhé.’’
(Lập Trường, số 6 tháng 6, 1964)
Nói như thế là ngụ ý ngay cả một mụ Luyến, một người đàn bà quê mùa, ít học mà cũng biết trước được kế hoạch ám sát ở đài phát thanh Huế
Chuyên viên chất nổ.
Thiếu tá Lê Văn Ấn, sở đạn dược nha quân cụ. Ra trước tòa, ông cho rằng Lựu đạn Ak3 (hay Mk3) là lựu đạn tấn công, sức công phá trong vòng 2 đến 5 thuớc. Ông chánh thẩm:
“Có giống như lựu đạn cay không? Không, đó là lựu đạn tấn công. Ông chánh án – sức công phá của nó có thể làm văng đầu đứt tay? Thiếu Tá Ấn: trong vòng bán kính 2 thước có thể chết, đứng gần văng đầu, tét da, tét thịt. Lựu đạn khi nổ có hai phần: Một phần thực sự bằng giấy cứng, một phần là hỏa pháo cơ bẩm bằng kim khí. Lựu đạn khi nổ tan không còn mảnh nào.”
Một đằng Đặng Sỹ nói, lựu đạn nổ không chết người, một đằng chuyên viên chất nổ nói chết người? Giấy cứng trong lựu đạn thì có thể gây chết người hay không? Và có thể gây tác hại bay mất đầu, thân hình dập nát không toàn thây?
Cái phần giấy cứng này đặt ra nhiều nghi vấn? Giấy carton có đủ gây sức chấn thương, nhưng có thể làm văng đầu, nát bấy cơ thể được không? Mà tại sao, không mang ngay một trái lựu đạn này cho nổ ngay trước toà? Sức nổ của nó sẽ có tác dụng phân rõ trắng đen ngay? Giết người hay không giết người? Giết banh xác hay mất đầu?
(Tóm lược báo Lập Trường, số 6/6/1964)
Theo tôi được biết, người Mỹ hay phóng viên của họ có thể đã quay phim vụ biểu tình trước đài phát thanh. Giá có được mấy thước phim đó thì chuyện trắng đen đã hẳn không còn cần mang ra bàn cãi đến bây giờ? Vũ Ngự Chiêu trích dẫn tài liệu The Pentagon Papers (Gravel), II:226 như sau:
“Dù được xem những khúc phim về cuộc đàn áp chứng minh quân lính của Sỹ bắn vào Phật tử. Diệm không thay đổi lập trường.”
(Vũ Ngự Chiêu, “Vài cảm nghĩ về Thượng Tọa Thích Quảng Đức”, Bài đã in trong Hợp Lưu 84 / tháng 8 và 9, 2005)
Có một cuốn phim như thế thật? Rất tiếc là trước tòa án, Chưởng lý đã không có được những khúc phim như thế làm bằng cớ? Và nhất là sau này, Trung Tướng Tôn Thất Đính có điều kiện truy lục cũng không kiếm ra được những khúc phim như thế?
Sự thật ở chỗ nào?
Phiên xử vụ án Đặng Sỹ kể là nhanh và gọn, kéo dài từ ngày mồng 2-6 đến ngày mồng 8-6 thì chấm dứt.
Những nhận xét sau đó cho rằng để chiều lòng TT Trí Quang trong vụ xét xử này cần được xét lại, vì trước khi toà án xét xử, TT Trí Quang đã gửi một lá thư xin tha mạng cho Thiếu Tá Đặng Sỹ.
Xem xét lại Hiện Trường thì đúng như TT Trí Quang xác nhận. Các nạn nhân bị chết ngay sát góc cửa lối vào đài phát thanh. Ở dưới nền nhà. Sát góc cửa, có một lỗ thủng bằng cái chén. Các cửa kính đài phát thanh đều bị vỡ, nhưng cửa gỗ đài phát thanh còn nguyên vẹn. Điều này cho thấy rằng chất nổ bằng hơi, gây sức ép chứ không phải bằng mảnh đạn. Mảnh đạn thì sẽ để lỗ trên cánh cửa. Sức hơi thì hoặc cửa vẫn còn đó hoặc có thể làm bay cánh cửa.
Về chất nổ. Chuyên viên chất nổ nhìn nhận rằng chất nổ trước đài phát thanh Huế là một loại chất nổ cực mạnh. Là gì thì không biết được, nhưng QLVNCH chưa hề được cung cấp xử dụng. Ngay trong ngày 11-7-1963, Ủy ban liên bộ đã thông báo cho Ủy ban liên phái cho biết các em nạn nhân chết do chất nổ của Việt Cộng. Dĩ nhiên, Ủy Ban liên phái không chấp nhận kết luận này và trong hồ sơ của Nguyễn Lang cho rằn Bác sĩ Lê Khắc Quyến bị ép buộc phải ký biên bản như trên.

Thư của TGM Nguyễn Văn Bình gửi chính quyền
Tài liệu sau đây do Nguyễn Văn Trung chép lại là lá thư dài hai trang đánh máy, không có chữ ký, viết bằng tiếng Pháp của TGM Nguyễn Văn Bình gửi cho chính quyền, ngày 14-5-1964. Có nghĩa là lá thư can thiệp đã gửi cho chính quyền hơn nửa tháng trước như một lời cảnh báo.
“Monsieur le Chef d’État
Monsieur le Premier Ministre
Monsieur le Président du Comité Révolutionnaire Militaire
(…) En ce qui concerne particulièrement les catholiques, beaucoup d’entre eux à partir du 1-11-1963, ont étés injustement incrinimisés et durement mal traités. Bon nombre de fonctionnaires et de militaires catholiques ont étés victimes de mesures totalement injustifiées. Beaucoup sont incarcérés pour la seule raison qu’ils sont catholiques.
Si, jusqu’à maintenant, nous avons subi en silence toutes ces humiliations et injustices, ce fut uniquement dans le désir d’éviter de porter atteinte à l’esprit d’union nationale indispensacle à la lutte contre les communistes. D’autre part pleinement conscients de la situation extrêmement difficile et délicate dans laquelle se trouvait le Gouvernement, nous avons, avec une extrême patience, attendu de sa part des mesures fermes et justes.
À l’heure actuelle, continuer à garder le silence serait manquer gravement à notre devoir à l’égard de la nation.

TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình (1910 – 1995)

(…) Pour ce qui est du cas de Dang Sy, tout le monde voit qu’on ne veut pas juger sur le plan juridique, mais sur le plan politique et religieux. La preuve en est que, depuis plus d’un mois, une campagne d’excitation populaire par les films, la radio, la presse, réclame la peine de mort, en suscitant la haine dans le peuple et en exercant une pression sur le tribunal Révolutionnaire.
Avant la date du 8 mai 1963(le gouvernement ne le sait que trop) le commandant Dang Sy, officier de l’armée Nationale du Viêt Nam, a été trois fois blessés, sept fois cités pour avoir vaillement lutté contre les communistes et pour la sauvegarde de sa patrie.
Le fait de vouloir juger Dặng Sỹ est une injustice évidente.
En conséquence, nous prions instamment le Chef de l’État, monsieur le Premier Ministre, le Président du Comité Révolutionnaire Militaire de reconsidérer ce cas selon la vérité et la justice. Autrement, nous et tous les catholiques, nous sentons le devoir de défendre à n’importe quel prix, la vérité et la justice…
Avant le Ier Novembre 1963, nous vous clairement fait connaitre aux autorités notre position. Aujourd’hui nous faisons de même…
Monsieur Paul Nguyễn Văn Bình
Archevêque de Saigon
Représentant de l’Episcopat du Viêt Nam. 14-5-1964”
Lược dịch:
“Kính gửi Quốc Trưởng
Kính gửi Thủ tướng chính phủ
Kính gửi Chủ tịch Ủy Ban cách mạng quân sự
(…) Về nhũng gì liên quan đặc biệt đến khối công giáo, nhiều người trong bọn họ kể từ sau 1-11-63 đã bị kết tội và đối xử một cách bất công. Nhiều công chức cũng như quân nhân công giáo là nạn nhân của những biện pháp hoàn toàn không có bằng cớ gì. Nhiều người đã bị giam giữ chỉ vì lý do họ là người công giáo.
Nếu cho đến nay, chúng tôi đã chịu đựng một cách thầm lặng tất cả những sự xỉ nhục và bất công, chỉ vì một lý do duy nhất là chúng tôi muốn tránh để giữ được tình đoàn kết Quốc Gia rất cần thiết trong việc chống lại cộng sản. Mặt khác, chúng tôi hoàn toàn ý thức được tính cách cực kỳ khó khăn và tế nhị của chính quyền trong hoàn cảnh hiện nay. Và chúng tôi chờ đợi ở nơi chính quyền những biện pháp mạnh mẽ và công bằng.
Trong lúc này, nếu chúng tôi cứ tiếp tục giữ sự im lặng thì sẽ là một thiếu xót nặng nề với bổn phận đối với đát nước.
Trong trường hợp Đặng Sỹ, mọi người đều thấy rằng người ta không muốn xét xử Đặng Sỹ trên bình diện Pháp lý, mà xét xử trên bình diện chính trị và tôn giáo.
Bằng cớ chúng minh là từ hơn một tháng nay, có một chiến dịch khích động quần chúng bởi những phim ảnh, đài phát thanh, báo chí, đòi hỏi một bản án tử hình cho Đặng Sỹ, bằng cách gây hận thù trong đám dân chúng cũng như ggay áp lực lên phía tòa án Cách Mạng.
Trước ngày mồng 8-5-1963, chính quyền hầu như chỉ biết Thiếu Tá Đặng Sỹ, như một sĩ quan của quân đội của VNCH, đã ba lần bị thương và 7 lần được vinh danh công trạng vì đã chiến đấu dũng cảm chống lại cộng sản và để bảo vệ tổ quốc.
Sự việc muốn sét xử Đặng Sỹ là một điều bất công hiển nhiên.
Vì vậy, chúng tôi yêu cầu Quốc Truongr, Thủ tướng chính phủ, ông chủ tịch Ủy Ban Cách Mạng quân sự xét lại trường họp Đặng Sỹ theo sự thật và công lý.
Mà nếu không được như thế thì chúng tôi và những người công giáo, chúng tôi cảm thấy có bổn phận tranh đấu bằng mọi giá cho sự thật và lẽ công bằng.
Trước ngay mồng 1-11 1963, chúng tôi đã có dịp bày tỏ cho chính quyền lập trường của chúng tôi. Ngày hôm nay chúng tôi cũng làm y như vậy.
Nguyễn Văn Bình
Tổng Giám Mục Sài Gòn
Đại diện cho Giáo quyền Việt Nam”
Sau lá thư của TGM Nguyễn Văn Bình, các Giám Mục kêu gọi giáo dân bình tĩnh. Tránh hành động nóng nảy.
Trong số ra ngày thứ bảy, 16 tháng 5, Nhật báo Xây Dựng do LM Nguyễn Quang Lãm làm chủ nhiệm có đăng tải một bản tin 8 cột đặt tiêu đề như sau “Hội Nghị quan trọng bất thường của Hàng Giáo Phẩm Việt Nam”. Nguyên văn bản tin ấy như sau:
“Mấy tháng qua, người công giáo khắp nơi cảm thấy một tình trạng ngột ngạt và từ đầu tuần vừa rồi hình như trong giới công giáo có một sự nhộn nhịp khác thường. Các vị cao cấp trong Giáo Hội Công giáo nhận được thêm báo cáo về hiện tình giáo hội trong giai đọan khẩn trương này, đặc biệt ở miền Trung.
“Ngày 14 tháng năm, tai Tòa TGM Sài Gòn, tất cả Giám Mục Việt Nam đã mở một phiên họp bất thường. Theo như chỗ chúng tôi biết, chương trinh Hội Nghị gồm nhiều điểm quan trọng, liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi tối cao của tín ngưỡng và tiền đồ dân tộc.
“Chiều 13 và sáng 15 tháng 5, hai cuộc Hội Thảo gồm nhiều vị giáo sĩ và giáo dân cũng đã được triệu tập. Hội Nghị đã cấp thời đề cử một ủy ban chấp hành và đi tới những quyết nghị cũng như những biện pháp quan trọng cần kíp để thực hiệnnhững quyết nghị trên. Bản Quyết Nghị đã được đệ lên Hàng Giáo Phẩm quyết định.
Ngay chiều 14 tháng 5, các giám mục đã ra thông cáo trấn an toàn thể khối Công giáo, khuyên tránh hành động nóng nảy, bởi vì các giám mục đã cương quyết kịp thời. Ap dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của Giáo Hội và Tổ Quốc.”
(Báo Chính Luận số 18/5/1964)
Trong bản tin của báo Chính Luận cho thấy tình trạng báo nguy khẩn cấp của hàng Giáo Phẩm.Tiếng nói của TGM Bình chỉ là tiếng nói đại diện mà đằng sau có sự ủng hộ của Hội Đồng Giám Mục.
Không khí nghẹt thở đã đến lúc có thể bùng nổ một cuộc biểu tình lớn của giới công giáo!

Kết luận
Lá thư của TGM, tuy lời lẽ ôn tồn, nhưng lại không thấy sự cứng rắn và cương quyết. Chắc hẳn khi nhận được lá thư này thì tướng Khánh — cho dù muốn chiều lòng dư luận giới Phật giáo đến đâu cũng phải đi tìm một giải pháp dung hòa giữa đôi bên. Sự thương lượng thế nào ở bên trong thì không được biết rõ.
Nhưng việc không tử hình Đặng Sỹ dứt khoát là một nhượng bộ của phe Khánh.
Chỉ đáng tiếc là viên chánh án xử thiếu tá Đặng Sỹ không đủ liêm khiết để sau này công khai cho biết đã bị áp lực như thế nào trong vụ xử án này. Ông quả thực thua xa tư cách của luật sư Quan khi biện hộ cho Cẩn.
Phần số phận Đặng Sỹ ngồi tù chẳng được bao lâu, khi ông Thiệu lên nắm chính quyền đã ký giấy thả cho về.
Nói cho cùng tòa án Cách Mạng sau 1963 chỉ giết được hai mạng người là Phan Quang Đông Và Ngô Đình Cẩn. Còn tất cả các án phạt tù chung thân khổ sai thì chỉ trong vòng một năm, tất cả các can phạm nều được thả về và nhiều người được thả về còn được thu dụng lại với một hồ sơ không tỳ vết.
Nếu như thế thì chúng ta nghĩ sao về trường họp hai án tử hình? Người thì đã chết, nhưng có nên trả lại công đạo cho họ không?
Còn lại chỉ có hai người duy nhất có nhúng tay vào máu.
Một là Dương Văn Minh đã chết.
Người còn sống là nhà sư Thích Trí Quang. Ông có đảm lược chính trị, ông là người có đủ dũng khí làm khuynh đảo cả một chế độ đem lại cái chết thảm khốc cho ba người. Chỉ có ông là người biết và nắm giữ nhiều sự thật, bí mật. Ông có thừa dũng khí để làm, để hành động, nhưng lại không đủ can đảm để nói ra hết sự thật trước lịch sử.
Cuộc sống hiện nay của ông có thể đếm từng ngày trước khi qua thế giới bên kia. Thời giờ đã không còn nhiều nữa.
Thật đáng tiếc lắm thay.

Nguyễn Văn Lục

http://www.dcvonline.net

* Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”

____________________

Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p7)

Huế là sân khấu chính trị của biết bao biến cố lớn nhỏ. Vậy mà nay nó để lại gì? Ai muốn đi tìm di tích đồn Mang Cá thì tìm ở đâu? Hỏi để hỏi vậy thôi. Càng hỏi càng không có câu trả lời. Các địa danh như Phủ Cam, Kim Long, Phường Đúc, Phú Xuân củng có biết bao dấu tích lịch sử tôn giáo, chính trị.

Bia 8 thánh tử đạo đến di tích lịch sử 9 hầm của Ngô Đình Cẩn dưới nhãn quan cộng sản


Trấn Bình Đài (Đồn Mang Cá) phía đông bắc cố đô Huế. DCVOnline tổng hợp ảnh OntheNet

Rồi Phu Văn Lâu sừng sững như mặt tiền của Huế. Nhưng mấy ai còn để ý và nhớ tới bốn chữ ghi trên Phu Văn Lâu: "khuynh cái, hạ mã". Tất cả hình như chỉ còn là vang bóng lịch sử cái còn cái mất.
[khuynh cái, hạ mã là “nghiêng lọng, xuống ngựa” khi đí qua những nơi linh thiêng, nhất là trước các Văn Miếu, Văn Thánhđể tỏ lòng tôn kính những bậc hiền tài, những vị thầy đáng kính có công lao dạy dỗ học trò. Thành ngữ của Tàu là 下 马 倾 盖 (Hạ mã khuynh cái — xuống ngựa nghiêng lọng)]
Nói chung, theo tôi, người Việt thường vô tình với lịch sử. Nay người ta thường tổ chức các buổi “Nhớ Huế”. Nhưng người ta nhớ cái gì của Huế? Chẳng lẽ chỉ nhớ tới món ăn Huế, giọng Huế, người Huế mà quên lịch sử Huế?
Ngay biến cố tết Mậu Thân nay còn để lại di tích gì? Tôi mong mỏi ít nhất dân Phủ Cam - một trong những nơi chịu nhiều oan sai trong dịp Tết Mậu Thân nhất nên dựng một bức “Tường thương tiếc” với đầy đủ danh sách nạn nhân. Và không thể quên tên của nghị sĩ Trần Điền. Phủ Cam cũng là họ đạo lâu đời nhất, có nên có một biên niên sử về những người con của Chúa từng xuất thân từ họ đạo này?
Hiện nay ở Huế, người ta chỉ thấy có hai di tích lịch sử được dựng lên sau này một cách vụng về, rất phản cảm và với sự đồng tình của chính quyền Cộng sản. Một là có một bia dựng lên ngay chỗ đài phát thanh Huế trong vụ nổ làm chết 8 người, đa số là trẻ em, năm 1963. Việc dựng bia này cũng là việc nên làm. Trên tượng đài có ghi danh sách 8 người đã tử nạn và được gọi là 8 Thánh tử đạo.

Đài kỷ niệm Thánh tử đạo tại Huế. Nguồn Vườn Lam.

Việc dựng bia tưởng niệm này, theo tôi, người ta dựng cho có vì nó sơ sài và thiếu trang nghiêm lắm. Đúng vậy, người ta có thể dựng một bia tượng bằng đá cẩm thạch chứ? Hà tiện chi với người đã chết. Các em chết do sự bất cập thời đại mà đáng lẽ các em không phải chết. Hẳn là các em không muốn làm thánh cho bằng sống tuổi thơ của mình, nhởn nhơ đánh đu, chơi đáo?
Ai là người đã cướp đi cái tuổi thơ đó? Đó là câu hỏi quan trọng nhất chứ không phải việc phong thánh cho các em.
Và vì thế có lẽ chỉ cần đề tên họ, ngày sinh có cần chi những chuyện tôn giáo, chính trị? Bản thân các em tò mò đến đó, rồi đùng một cái chết lãng xẹt nào có khái niệm gì về tôn giáo, về tranh đấu, về sự hy sinh!
Còn đối với bà mẹ các em, chỉ có một điều là họ nghĩ rằng con họ sẽ không bao giờ trở lại nữa.
Đó là nỗi đau xót nhất.
Và đối với các bà, lúc này đây, không có lý tưởng tốt xấu, mà chỉ có những đứa con đã mất. Khi ra tòa xử Đặng Sỹ — người được coi là thủ phạm gây ra 8 cái chết này — Tôi lấy làm ngạc nhiên là không một ai trong số các cha mẹ các em lên tiếng đòi bồi thường. Họ có cái quyền đó chứ. Tại sao họ đã không đòi bồi thường?
Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra ở đây cần được nhân rộng, khơi mở gợi ý cho giới tăng sĩ Phật giáo, các phật tử Huế là có đài tưởng niệm — điều đó là quý rồi — Ngoài khu bia tưởng niệm 8 nạn nhân chẳng mấy gì làm đẹp đẽ trang trọng, xây trên một khu đấp hẹp bằng xi măng. Nó thiếu một khoảng không gian rộng rãi, thoáng mát. Nó thiếu cảnh trí như cây cối, ghế ngồi. Nghĩa là nó trơ trọi và tầm thường. Nhưng không phải chỉ cho 8 nạn nhân chết oan — mà cần một đài kỷ niệm để tưởng nhớ đến 5000 nạn nhân chết thảm khốc trong vụ Tết Mậu Thân. Và nếu có thì phải gọi những nạn nhân này là gì?
Và từ 1968 đến nay, chúng ta phải làm gì và đã làm gì cho những bà con anh em, ông bà cha mẹ ruột thịt đã chết thảm, chết oan uổng, chết chôn sống, chết không toàn thây, chết vô tội trên mảnh đất oan nghiệt là xứ Huế?
Trách các thầy thì cũng không đúng. Từ 1968-1975, chúng ta có dư thời gian để dựng nên một bức tường thương tiếc, ghi danh tánh đầy đủ các nạn nhân trong vụ tàn sát thảm khốc 1968 do cộng sản gây ra. Cả dân Huế đến chính quyền Đệ II Cộng Hòa đã không ai quan tâm đủ đến việc đó.
Nay chẳng lẽ đòi cộng sản phải làm thay cho chúng ta?
Ở nước Pháp, đi đến đâu, ở khắp nơi, người ta đều ghi nhận những di tích chiến tranh, đều được ghi dấu để lại. Chỗ nào có chiến trận, chỗ ấy có nghĩa trang dành cho các anh hùng tử sĩ. Ở nơi ấy, các mộ phần, không còn biên giới thù địch nữa. Sự kiêu hãnh cũng như tủi nhục không còn nữa.
Ở đó không có chỗ cho sự phê phán, phân biệt ai là thù ai là bạn, không có người Đức Phát Xít hay người kháng chiến Pháp. Đó là nét đẹp hòa giải sau chiến trận mà ý nghĩa của sự chiến thắng hay thua cuộc không được nhắc tới.
Chỉ có sự thương tiếc là đáng kể đối với những người đã ra đi.
Phần người dân Huế phải tự hỏi họ đã làm gì? Cấp chính quyền Huế hiện nay phải tự hỏi họ có bổn phận gì khi họ là nguyên nhân gây ra tội ác? Không lẽ những oan hồn uổng tử ấy chết không một nấm mồ, không một vòng hoa, không một mộ bia tưởng niệm?
Phải nhìn nhận rằng trong chiến thắng, người cộng sản đã thiếu một thứ văn hóa đối với kẻ thua trận và đối với cả người đã chết. Họ chỉ giỏi khơi động lòng căm thù như trong trường hợp Khu 9 hầm sẽ được nói tới sau đây.

Khu tưởng niệm chín hầm và hầm số 8. DCVOnline tổng hợp ảnh Onthenet.
Từ đài kỷ niệm Thánh tử đạo tại Huế và di tích 9 hầm cho thấy thiếu một văn hóa của lòng khoan dung đối với người đã chết và cả đối với người còn sống, đối với lịch sử của dân tộc.
Phần người dân Huế thì theo quán tính có thể im lặng mãi đến khó hiểu. Chẳng khác gì sự im lặng trên 40 năm nay của người lãnh đạo các Phong trào Phật giáo xuống đường là ông sư Thích Trí Quang.
Họ là cái nôi của các cuộc tranh đấu xuống đường, họ hô hào, đả đảo ầm ĩ nhất. Họ còn là biểu tượng cho quê hương của Phật Giáo nay lẽ nào để những người con Phật như những oan hồn uổng tử đi vất vưởng đầu đường xó chợ?
Không biết họ sợ hãi nỗi gì? Tưởng niệm người đã chết là một tội chăng? Không lẽ không có một ai đủ thẩm quyền, đủ can đảm, đại diện cho 5000 nạn nhân đã chết, dám đứng lên đòi một tượng đài bia mộ, ghi danh sách đầy đủ các người đã chết oan trong cuộc tổng tấn công của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân. Người ta có thể đòi một chỗ xứng đáng cho các chiến sĩ VNCH tại Nghĩa trang đã bỏ mình thì hà cớ gì không đòi được một bia mộ cho nạn nhân Têt Mậu Thân?
Hơn nữa, tôi mong muốn hơn thế nữa. Họ có bổn phận phải đòi xây dựng một nghĩa trang khang trang trên một mảnh đồi, nơi thông thoáng nhất, dành để chôn cất tất cả những người ấy.
Thật rất tiếc nếu người ta không làm được.
Nay thì người ta chỉ lo truyện chiêng trống, cờ xí bên ngoài, quần áo lòe loẹt, lễ hội phù phiếm cóp nhặt, bắt chước để câu khách du lịch.
Du lịch là một nghề buôn giết cái hồn của dân tộc. Càng hoành tráng, càng trống rỗng nội dung, càng bày ra sự nhố nhăng, lấy cái bề ngoài, cái vỏ làm lẽ sống.
Trong khi đó, người cộng sản cho xây dựng Khu 9 hầm như chứng tích sự độc ác, tàn bạo như một địa ngục trần gian của bạo chúa Ngô Đình Cẩn. Toàn bộ khu vực nhà giam là 4 hectare, vốn là các kho đạn để lại từ thời Pháp thuộc nằm trên một ngọn đồi. Phía trước ngọn đồi là các hầm đánh số 1, 2, 3. Hầm số 4, 9 nằm trên đỉnh đồi. các hầm số 5, 6, 7, 8 nằm sau phía bên kia đồi.
Cảnh bài trí, tái thiết các hầm với các hình nộm người tù nhân — nạn nhân của Ngô Đình Cẩn — xem ra không khác chi mấy với những điều người ta đã thiết trí như ở ngoài Côn Đảo.
Ông Ngô Đình Cẩn chết đã trên nửa thế kỷ, người cộng sản vẫn sợ ông, vẫn nguyền rủa ông. Họ vẫn cố tạo ra một chế độ phi nhân, tàn bạo, phi dân tộc qua hình ảnh Ngô Đình Cẩn để che lấp tội ác của chính họ. Có hàng ngàn trại giam cộng sản từ Bắc chí Nam từ thời Pháp thuộc, thời VNCH, thời sau 1975 với hàng vạn cái chết đủ loại.
Bao giờ họ phá bỏ được các di tích ấy để đứng thẳng làm người?
Qua hơn nửa thế kỷ, vết nhơ 9 hầm càng hiển lộ là của chính họ, chứ không còn là của ông Cẩn nữa.
Cảnh trí khu 9 hầm nay thật sơ sài, hoang dã đến buồn nản.
Nhưng tôi đặc biệt quan tâm đến một trong những bức hình ghi lại trong nhà lưu niệm là hình ảnh Ngô Đình Cẩn bị xử bắn ở nhà giam Chí Hòa vào ngày 9-5-1564.
Ngoài ra thì không còn gì để nói đến nữa. Người ta còn có thể xem gì ở những nơi ấy?
Để lại hình ảnh Ngô Đình Cẩn bị xử bắn là cố gắng đổ hết tội lên đầu Ngô Đình Cẩn. Nói tới Ngô Đình Cẩn là người ta nói tới độc ác, tàn bạo, dã man và cũng là biểu tượng cho nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Những hướng dẫn viên du lịch được dặn dò phải gọi ông Cẩn là thằng Cẩn, thằng Diệm. Bật cười thay cho xã hội chủ nghĩa văn minh, tiến bộ nhất loài người?
Điều gì dành cho ông Cẩn thì trước đó cũng đã được dành cho người Pháp. Jules Roy, một phóng viên đã sang thăm Việt Nam sau trận Điện Biên Phủ đã buồn bã nói rằng đi đâu tôi cũng hỏi: "Đâu là mồ của những người Pháp chúng tôi?"
Chúng ta cũng có quyền hỏi, đâu là mồ cho những chiến sĩ VNCH đã bỏ mình trong chiến tranh?
Suy nghĩ về di tích 9 hầm của Ngô Đình Cẩn, tôi càng thấy cái đê tiện, cái hèn hạ, cái nhỏ nhen của người cộng sản!
Đây chẳng qua là trò ném đá dấu tay hèn hạ của người cộng sản. 9 hầm làm chết bao nhiêu người? Danh sách bao nhiêu? Trong khi tội ác giết hại 5000 dân vô tội trong dịp tết Mậu Thân thì cộng sản cố tình xóa bỏ.
Kể từ ngày 26-2-1993, 9 hầm và ngôi nhà của Ngô Đình Cẩn được sắp xếp vào di tích lịch sử với lời ghi: “Lưu niệm di tích lịch sử tội ác của 9 hầm và nhà Ngô Đình Cẩn”.
Và mỗi năm khách du lịch đi qua đây lại được bọn hướng dẫn viên cò mồi có dịp kể tội nền Đệ Nhất Cộng Hòa, kể tội "thằng Cẩn" độc ác, dã man chưa từng có.
Chúng ta có nên để họ tiếp tục làm như thế nữa chăng?
Người dân Huế phải đứng lên đòi công đạo.
Người dân muốn biết có bao nhiêu đồng chí bị giam ở 9 hầm? Danh sách ở đâu? Những người nào đã thực sự đã bỏ mình, chết bỏ đói ở 9 hầm?
Họ còn đổ tội cho Ngô Đình Cẩn giết hại người dân Huế. Có bao nhiêu thanh niên, bao nhiêu sinh viên, bao nhiêu phật tử bị giam cầm ở đây?
Đối với tôi, tôi còn muốn biết thật đầy đủ có bao nhiêu nhà sư, bao nhiêu Phật tử, bao nhiêu sinh viên bị giam ở 9 hầm như được cho là ở hầm số 4? Chẳng lẽ nhà chùa lại không có được danh sách đầy đủ này cho thấy tội ác của Ngô Đình Cẩn? Cho dù không có danh sách thì nay ít ra cũng có một số nhân chứng, với tên tuổi hẳn hoi, nhìn nhận là nhân chứng, đã từng bị mật vụ Ngô Đình Cẩn giam ở 9 hầm?
Và nếu thật sự có một nhà sư “thật” nào đã bỏ mình hay một phật tử bỏ mình tại nơi đây thì tội ác của Ngô Đình Cẩn không thể tha thứ được.
Trong khi đó, tôi được biết chắc chắn có 6 bị can có tội phản nghịch quốc gia, bị bắt ngày 21-8-1963 có tên sau đây và tôi tự hỏi họ bị giam giữ ở đâu? Họ có phải là nạn nhân của 9 hầm không hay được giam giữ tử tế? Dĩ nhiên, hỏi là trả lời: Họ được giam giữ tử tế.
Đó là các ông Lê Khắc Quyến, Khoa Trưởng Y Khoa Huế, Võ Như Nguyện, Chủ sự Viện Hán Học Huế, Lê Tuyên, Giám đốc Học vụ Văn Khoa, Hoàng Văn Giàu, Giảng nghiệm viên đại học, Võ Văn Thơ, phụ khảo Đại Học Sư Phạm, Nguyễn Đán tức Thích Trí Thủ, Thượng tọa Tổng Thư ký 5, cấp Trị sự Trung Việt.
(Trich Lê Dư, Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên, Huế, tài liệu phúc trình có tên: “Tổng Kết Nội vụ và Đại Học”, bản in photcopy trang 1)
Xin trích dẫn lời khai của bị can Lê Khắc Quyến trong tập tài liệu:
“Riêng bị can Lê Khắc Quyến trong lời khai đã cho biết rõ ràng đương sự được chỉ thị của Việt Cộng lập ra tổ chức “Hòa Bình thế giới”, tập hợp một số trí thức tại Huế để hoạt động ra tờ báo “Ngày Mai” do đương sự làm chủ nhiệm với sự cộng tác của một số bác sĩ trí thức ở Huế, sau khi tờ Ngày Mai bị đình bản và phong trào Hòa Bình Thế giới bị giải tán. Đương sự vẫn ngấm ngầm tiếp xúc với tên Lê Minh, Thường vụ Khu Uỷ Việt Cộng Khu V, Ngô Trưu tức Lê Lén, Bí thư Thành Ủy Thuận Hóa, Huế để hoạt động. Hành động bí mật của đương sự bị phát giác năm 1957-1958, khi Công an Thừa Thiên bắt được 2 tên cán bộ V.C cao cấp Nguyễn Phụng tức Đạt Phó, Bí thư Tỉnh Ủy VC Thừa Thiên và Tôn Nữ Hoài An, quận Ủy viên VC Thuận Hóa đã khai xuất và tố giác hoạt động của đương sự. Sở dỉ đương sự không bị bắt vì lúc đó được sự che chở của ông Lê Khắc Duyệt, Nguyên Giám Đốc Nha Cảnh Sát và công an Trung nguyên, Trung Phần.”
(Tổng Kết Nội vụ Phật Giáo và Đại Học. Phúc trình của Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên. Tối Mật)
Chúng tôi chỉ nêu ra một hồ sơ trên đây làm bằng chứng. Những người như Lê Khắc Quyến đã thú nhận có liên hệ hợp tác với cộng sản như Lê Minh. Sau này Lê Minh là một trong những cấp chỉ huy quân sự đã đánh chiếm Huế, gây ra cảnh chết chóc như chúng ta đã thấy.
Liệu trong số các nhà sư, giáo sư đại học, các sinh viên có dính dáng xa gần với tổ chức cộng sản, có ai trong số họ đã bị Ngô Đình Cẩn giam vào 9 hầm không? Hay 9 hầm chỉ để giam cầm không phải cán bộ cộng sản thường mà chỉ để giam cộng sản không chuyển hướng?
Ai có thể trả lời cho câu hỏi của tôi để giải nỗi oan cho Ngô Đình Cẩn? Chỉ có những người từng bị giam cầm trong 9 hầm có thể dứt khoát trả lời minh bạch về vấn đề này.
Phần cộng sản không ngừng biến khu 9 hầm để bôi nhọ Ngô Đình Cẩn khi đón tiếp các đoàn du lịch thăm viếng.
Phần các cán bộ bị giam cầm ở 9 hầm chỉ thấy họ nêu tên ra được hai người như: Hầm số 8 có Nguyễn Minh Vân, một trong ba người còn sống sót là cựu đại tá tình báo cộng sản bị giam 724 ngày hiện đang sống ở Hà Nội. Người khác nữa là Nguyễn Vĩnh Nghiệp.
Sựụ bôi nhọ, tuyên truyền phỉ báng chế độ ông Diệm và riêng cá nhân ông Cẩn là điều hiểu được và cũng là điều không hiểu được.
Bởi vì cộng sản luôn luôn hành xử bịp bợm như thế. Nhưng sự im lặng của dân Huế trong nhiều năm là diều không hiểu được.
Các cán bộ đã bị bắt giam dưới thời ông Ngô Đình Cẩn đã chuyển hướng hoặc chưa chuyển hướng đã nhận xét gì về Ngô Đình Cẩn?
Mặt chính quyền chính thức, cộng sản coi Ngô Đình Cẩn cũng như nền Đệ Nhất Cộng Hòa chất chứa đầy tội ác đối với nhân dân miền Nam. Tuy nhiên, lại có những cán bộ cộng sản từng là nạn nhân của chế độ giam cầm của Mật Vụ Ngô Đình Cẩn lại có một cái nhìn thông thoáng, nếu không nói là đề cao sách lược của Ngô Đình Cẩn.
Nhưng cũng xin thưa trước với bạn độc, khi xử dụng tài liệu trực tiếp từ phía bên kia, chúng tôi hơn ai hết thấy cần có một sự cẩn trọng ngoài thông lệ. Chẳng hạn, những tài liệu dưới dạng tiểu thuyết như cuốn Ông Cố vấn Hồ sơ một Điệp viên của Hữu Loan, Phạm Xuân Ẩn, tên người như cuộc đời của Nguyễn Thị Ngọc Hải, chúng tôi chỉ đọc chơi vài dòng chứ không dám dùng. Những sách này chỉ đánh lừa và thỏa mãn óc tò mò của những người bình dân mà thôi.
Ngay những sách dịch ngoại quốc như cuốn Decent Interval của Frank Snepp dầy 590 trang, trong khi cuốn sách dịch với nhan đề: Cuộc tháo chạy tán loạn tóm lại còn 375. Sự rút ngắn lại ấy không cho phép người đọc dễ dãi xử dụng vì sẽ bị lừa.
Cuốn Hồi Ký của Nguyễn Hiến Lê, được in lại sau này sau 1975, bị cắt cả một hai chương. Người dọc cẩn thận vẫn phải đi tìm lại ấn bản cũ hoặc đã được in lại ở Hải ngoại để độc để đọc. Nói chi những sách viết về sử học thi càng phải đắn đo, so sánh nhiều nguồn vì tính cách phi thực của chúng.
Nói chung, hầu như toàn bộ các sách ấy đều phải xử dụng một cách rất dè dặt.
Vì thế, khi tôi xử dụng một bản photocopy cuốn Bội Phản hay Chân Chính của Dư Văn Chất để dùng trong bài viết về Ngô Đình Cẩn là có lý do chính đáng của nó.
Mặc dầu ông Dư Văn Chất cũng như các cán bộ cộng sản đã bị giam tù của Mật vụ Ngô Đình Cẩn chẳng ưa gì Ngô Đình Cẩn. Họ vẫn xử dụng cách gọi xách mé như thằng Cẩn v.v. Nhưng họ bắt buộc phải nhìn nhận là cách bắt và giam người của Ngô Đình Cẩn trong chính sách chiêu mời là quá khôn ngoan và không kém hiểm độc.
Hơn nữa, cuốn sách tôi xử dụng chưa được in và hầu như cấm không được in cũng như không được phổ biến. Thứ hai nó như một điều trần hay như một thỉnh nguyện thư gửi lên cấp lãnh đạo cộng sản để bày tỏ những hoàn cảnh của họ khi bị tù dưới chế độ Mật vụ Ngô Đình Cẩn cũng như những khó khăn mà họ phải đương đầu với Mật vụ của ông Cẩn.
Trong số họ, có người kiên trì, nhất định không chịu chuyển hướng nên bị tù đầy, hành hạ không ít. Trong số ấy, có một số bị giam ở 9 hầm. Còn những kẻ chịu chuyển hướng thì được ông Ngô Đình Cẩn cho phục chức và ngay cả cho nắm ngành an ninh Quốc Gia và nhiều người đã tỏ ra có tài cán và hoạt động có hiệu quả trong những công tác đã được giao phó cho họ.
Trong một bài viết tới, chúng tôi sẽ đề cập đến trường hợp Đại Tá Nguyễn Bé, một cán bộ cộng sản, sau khi bị thương ở chân, đã đổi tên, đổi họ trở về với Quốc Gia, được trọng dụng và trở thành một sĩ quan gương mẫu, tài ba và nhất là liêm chính.
Những người cộng sản hồi chánh như thế cho thấy chính sách biết dùng người của hai nền Cộng Hòa miền Nam như thế nào.
Sau 1975 thì tất cả mọi loại người tù chính trị đều được thả ra. Nhưng phần đông những người đi tù thời Mật vụ ông Ngô Đình Cẩn thì đều bị nghi ngờ và không được chính người cộng sản xử dụng.
Họ bị loại bỏ vì họ bị xếp vào thành phần có vấn đề. Tại một Hội Nghị cán bộ chủ chốt họp ở Thủ Đức, Sáu Thọ phát biểu: “Chín mươi phần trăm cán bộ đảng viên bị bắt, tù đầy dưới chế độ Mỹ-Ngụy, có vấn đề chính trị”
Chính vì thế, Dư Văn Chất viết: “Bằng tác phẩm này, tôi muốn nói với Đảng, với người thân với bạn bè, với người yêu và kẻ ghét. Nói thay cho người đã chết và cả người còn sống.” (Dư Văn Chất, Bội Phạn hay Chân Chính. Phần III: Cán bộ Chuyển Hướng, bản photocopy)
Khi viết: nói thay cho người đã chết, Dư Văn Chất muốn nói đến trường hợp cán bộ Thiếu tá Đặng An nhận được quyết định về vườn nghỉ hưu, kèm theo bản án khai trừ Đảng với bản luận tội thời gian ở tù Mật Vụ. Thật kinh khủng cái phiên tòa nội bộ. Trước khi chết, mặt trắng bệch, hai mắt trợn trùng, miệng thều thào hỏi: “Sao, đã chuyển hồ sơ khiếu nại với Đảng chưa?” (Dư Văn Chất, ibid.)
Cái chết oan sai vào năm 1990 của Đặng An để lại dư âm hai câu thơ không biết của ai đó như sau:
Nát thân, nát cả tâm hồn
Lẫn trong cái chết vẫn còn cái đau!
Ghi chú thêm về Đặng An theo Dư Văn Chất
“Đặng An tên thật là Trương Văn Quí, sanh năm 1926, ngư dân nghèo đất Phú Yên thuộc Nam Trung Bộ, cùng lứa tuổi với tôi (Dư Văn Chất) và Chân. Chúng tôi là những người đã trưởng thành trong 9 năm kháng chiến tới đỉnh cao Điện Biên Phủ. Năm 1958, Đặng An được phong quân hàm Trung úy Hải Quân. Đầu năm 1960, Chân và tôi lần đầu tiên gặp gặp Đặng An ở Mật vụ đường Lê Văn Duyệt, Sài gòn. Chúng tôi được biết Đặng An là thuyền trưởng kiêm Bí thư chi bộ một thuyền cá gồm 5 đảng viên cộng sản thuộc Cục Quân báo vượt biển xâm nhập miền Nam. Trung úy Hà Phượng, tên người thuyền phó bội phản, lên bờ đầu thú, dẫn địch bắt gọn cả thuyền, người và điện đài. Đặng An phải nhận những gì thuyền phó và anh em thuyền nhân đã khai báo với địch. Đặng An vừa mới được đưa đến trại Lê văn Duyệt ít ngày đã bị chúng nhốt ngay vào xà lim muỗi biệt phòng hai. (Xà lim giam những người không chịu khai báo và “chuyển hướng”). Sau chúng giải Đặng An ra Huế và nhốt ở Mang Cá nhỏ cùng chung xa lim với tôi. Mang Cá nhỏ là một trại giam biệt lập của Mật vụ nhốt khoảng 30 chục tù nhân Việt Cộng, là trại Trung chuyển đưa đi thủ tiêu: một lối lên chín hầm bỏ chết từ từ, từng giờ, từng ngày và từng người và lối khác mang đi chụp bao bố đem trôi sông hoặc thả biển. Mùa đông 1963, địch lột trần trụi Đặng An nhốt ở xà lim muối ở lao Ty Công An, Thừa Thiên. Cái lạnh xứ Huế buốt tận tủy Xương mà còn đem ướp muối, thử hỏi sức người chịu sao nổi? Suốt ngày đêm ghé mồm vào lỗ thông hơi, Đặng An vừa run lập cập vừa la: Đả đảo đàn áp tù nhân”. (…) Sau Giám thị Phạm Mại đành lòng mở cửa hầm, trả lại áo quần thả anh về với chúng tôi.. Tháng năm 1964, anh và tôi được ra khỏi tù.. Anh được lệnh trở ra căn cứ công tác tại tại Phòng Quân Báo Miền. Anh đổi bí danh là Năm Ân, công tác liên tục từ đó tới 1975. Ngày 30 tháng tư, cùng với đoàn Giải Phóng Quân tiến vào Sài Gòn. Thiếu tá Đặng Ân tới tìm tôi tại nhà riêng. Cũng vào dịp này, Thiếu tá Lê Chân bước ra trình diện Cách mạng và đi cải tạo.”
(Dư Văn Chất, ibid., Chương III)
Chính vì vì bị đối xử oan ức và bất công nên mới có trường hợp ông Dư Văn Chất, tập hợp đám cựu tù nhân thời ông Cẩn viết lại những trải nghiệm của họ trong nhà tù của Ngô Đình Cẩn. Và họ chủ trương, theo đúng tinh thần Nghị Quyết của Đại Hội 4 là: “Phải nói thẳng, nói thật, nói hết với Đảng”.
Vì thế, theo tôi, những điều họ viết ra tương đối là trung thực và đáng được lưu tâm tìm hiểu.
Nhưng cũng nhờ đó mà chúng ta biết được làm thế nào ông Ngô Đình Cẩn đã thành công trong Chính sách Chiêu mời những người kháng chiến cũ về hợp tác với chính phủ Quốc Gia. Và cũng nhờ những người cựu kháng chiến này mà tất cả cơ sở, đường giây liên lạc cũng như các tổ chức đường giây của họ bị lộ và dần dần bị bắt tất cả.
Điều đó cho thấy sự khôn ngoan của ông Cẩn. Nhưng nếu trong số họ, ai ngoan cố không chịu về hợp tác thì ông có những biện pháp trừng trị mạnh tay, trong đó có cả cái chết cầm chắc trong tay.
Dư Văn Chất viết về cái hoàn cảnh dở sống, dở chết nếu không chuyển hướng như sau:
“Ông sẽ cho chúng mày chết hết. Không chết cũng thân tàn ma dại. Không chết bây giờ thì về với Đảng chúng mày cũng chết — chết khổ chết dở, chết day chết dứt… xem ai thắng ai! Lời nguyền của Mật vụ còn nguyên đó. Tôi muốn nói nhỏ với oan hồn: Chết là được giải thoát, Đặng An!”
(Dư Văn Chất, ibid.)
Có nghĩa theo thì có con đường sống mà không theo thì chết. Phải chăng đó là cái ác của ông Cẩn.
Còn phần đông dân chúng không hiểu hoạt động cũng như đường lối hoạt động bí mật của nhóm Mật vụ ông Cẩn nên đã nghi ngờ và những sự xử sự độc ác với cộng sản không chuyển hướng có thể bị cho là tiêu diệt những người Quốc Gia?
Chính cái tổ chức của đám Mật vụ Ngô Đình Cẩn mang tính cách một hoạt động bí mật trong việc truy tìm thủ phạm, thủ tục bắt giam, ngoài khung pháp lý bình thường đã trở thành nỗi oan cho chính các nhân viên mật vụ.
Và trớ trêu thay, chỉ những người trong cuộc, những cựu cán bộ cộng sản đã chuyển hướng hay không chuyển hướng lại là những người hiểu rõ nhất về tổ chức Mật vụ Ngô Đình Cẩn.
Cho nên, giải nỗi oan cho đám nhân viên mật vụ Dương Văn Hiếu và cho cá nhân Ngô Đinh Cẩn không ai rõ hơn các người từng bị bắt và bị giam dưới thời Ngô Đình Cẩn.
Cũng vì thế, khi viết về tình trạng những người cán bộ cộng sản bị bắt dưới thời Ngô Đình Cẩn, ông Dư Văn Chất đã mong muốn đưa tập tài liệu Bội Phản hay Chân Chính ra ngoại quốc và mong chuyển tập tài liệu của ông đến tay Dương Văn Hiếu để ông Hiếu cho ý kiến.
Thật là không biết nói sao đây, giải nỗi oan cho Ngô Đình Cẩn, đề cao trí thông minh và kế sách chiêu mời hiểm độc cũng như sự thành công hữu hiệu của chính sách ấy lại do chính những kẻ thù của ông Cẩn viết ra.
Trong một đoạn khác, Dư Văn Chất giải thích sau “cách mạng 1 tháng 11-1963, bằng cách nào các cán bộ cộng sản được thả ra hàng loạt tù nhân của Mật vụ.”
Một lần nữa cho thấy tinh thần làm việc hoàn toàn vô trách nhiệm của đám lãnh đạo quân phiệt như đám Dương Văn Minh- Nguyễn Khánh đã thả hổ về rừng.
Miền Nam thua cuộc vì những đám lãnh đạo nây.
Sự tiết lộ của Dư Văn Chất thật sự là quan quan trọng. Sau đây là lời giải thích của Dư Văn Chất cắt nghĩa tại sao họ đã được thả ra một cách dễ dàng như vậy.
Trong đó cũng có sự trao đổi giữa Dư Văn Chất, cựu tù mật vụ được thả ra và Chân, một cán bộ đã chuyển hướng và làm Thiếu tá, phụ tá cho Dương Văn Hiếu. Đây là cuộc trao đổi khá trung thức giữa người đã chuyển hướng và người chưa chuyển hướng mà cuối cùng số phận kẻ không chuyển hướng không hơn gì số phận kẻ đã chuyển hướng sau 1975.
Xin mời bạn đọc theo dõi cuộc trò chuyện giữa những người đã từng là đồng chí.
“Thế phe đảo chánh thuộc cánh nào mà lại thả các anh? Không dễ gì đâu.
— Chuyện hơi dài, tóm tắt là thế này: lập tức sau ngày Diệm đổ, bọn mình đấu tranh gắt “củ kiệu” với chính quyền mới. Anh thấy đó, thoát khỏi nanh vuốt của Mật vụ là khỏe re. Chỉ một chút xíu dân chủ với nhân quyền thôi là bọn chúng kẹt ngay, kiếm hoài không đâu có hồ sơ hay bút tích nói về việc này. Viên Trung úy phe đảo chánh tiếp quản Ty Công An Huế phủi tay: Cho giải luôn tất cả đám “tù lậu” về trả Tổng Nha Công An Sài Gòn. Tới đâu bọn mình cũng la làng: Đây là anh em trí thức dân chủ bị chính quyền độc tài khủng bố, vu cáo, bắt bất hợp pháp, không làm hồ sơ, không có án tòa vv..mà đúng căn bọn độc tài là thế thật- thằng chó nào cũng như thằng nấy thôi.
Về tới khám Cộng Hòa thuộc Tổng Nha Công An, đúng vào lúc Hà Thúc Ký làm Bộ Trưởng Nội vụ thị sát trại giam, thăm hỏi và nhận diện tù nhân. Thấy đúng người cùng đảng phái với y là y lấy ra lập tức, không có oong-đơ gì hết, vì y cũng biết anh làm quân sư cho Dương Văn Hiếu, muốn làm gì trong trại tù, bọn Hiếu, Thái, Khanh đều tham khảo ý kiến cố vấn là anh. (Anh đây là cán bộ Chân, đã chuyển hướng và được phong chức Thiếu tá, làm việc cho Dương Văn Hiếu.)
— Anh nói tham khảo thì tôi chịu — Chân đáp lại ngay. Chớ quân sư với cố vấn thì không đúng. Có cái họ hỏi, cái thì họ không. Dù có hỏi thì cũng đẫ tham khảo, chứ họ đã quyết là quyết định độc lập, không ảnh hưởng họ đâu. Mỗi khi đưa ý kiến ra là tôi đều suy tính sao cho có lợi cho anh em.”
(Dư Văn Chất, ibid.)
Và sau đây là tâm tư của Dư Văn Chất, khi biết rằng chẳng bao lâu nữa, Chân người đồng chí của anh ta từ thời kháng chiến 9 năm, đã chuyển hướng, và sau 1975 đã phải đi học tập cải tạo và đã được Mỹ nhận trong chương trình H.O. sang Mỹ cùng vợ con.
“Qua những giọt lệ ứ động quanh khóe mắt, tôi nhìn thấy nét mạt phởn phơ của Chân mà lòng dạ chán chường, thoáng hiện ra trong trí tưởng tượng chiếc phản lực cơ khổng lồ với hình ảnh gia đình Chân tay xách nách mang tíu tít trèo vội lên thang máy bay. Con đại bàng gầm rú vang trời, thoắt một cái đã nâng bổng mọi người vút lên mấy tầng xanh. Còn trơ lại bọn tôi với cỗ quan tài mộc mạc ép chặt cái hình hài bé nhỏ Đặng An, mặt mày trắng bệch, hai mắt trợn trừng, miệng thều thào hỏi: Sao, đã chuyển hồ sơ khiếu nại với Đảng chưa?”
(Dư Văn Chất, ibid.)
Chỉ đọc mấy dồng chót của Dư Văn Chất đủ cho thấy Chân chọn con đường chuyển hướng là đúng, để lại sự bẽ bàng, tủi nhục cho những người quyết tâm kiên trì, không chuyển hướng như Dư Văn Chất và số phận của Đặng An.
Những người Quốc Gia cũng như một số không nhỏ người Huế tiếp tục chê trách ông Ngô Đình Cẩn là hung thần ở miền Trung, tôi nghĩ không có cách nào thay đổi cái nhìn của họ về chế độ. Nhưng tôi nghĩ trong một cuộc chiến như Việt Nam giữa Quốc Gia và Cộng sản cơ quan Mật vụ của Ngô Đình Cẩn là những công việc không thể không làm một cách chẳng đặng đừng.
Cộng sản Việt Nam cũng như cộng sản trên thế giới dùng bạo lực Cách mạng đã sát hại hàng ngàn, hàng vạn người dân vô tội. Tội ác của họ là không bút mực nào tả hết.
Ông Ngô Đình Cẩn, một người nông dân ít học, một người, mà theo tôi, hiểu cộng sản hơn ai hết, bằng xương thịt trong huyết quản, hơn cả giới trí thức như những người anh em của ông.
Ông thường sống trên một căn nhà sàn trên mặt nước ngoài bãi biển Thuận An. Ông gần gũi người dân hơn bất cứ ai và dựa vào tình báo nhân đân hơn là mấy móc, điện đài kỹ thuật tinh vi, tối tân.
Vậy mà ông đã diệt, xóa trắng được những cơ sở của Việt Cộng khiến họ phải nể sợ ông.
Tôi không có điều kiện để có thống kê đầy đủ là Ngô Đình Cẩn đã giết hại bao nhiêu cán bộ cộng sản. Và nhất là càng không biết ông đã giết oan những người dân Huế vô tội là bao nhiêu? Nhưng con số cán bộ cộng sản bị bắt thì có thể biết được. Cũng theo Dư Văn Chất, cán bộ nằm vùng bị bắt là khoảng 5000. Dư Văn Chất viết:
“Một cách cụ thể, khoảng 5000 cán bộ, đảng viên từ cơ sở đến trung cao cấp bị bắt từ 1958-1960, kể cả linh hồn của tổ chức tình báo chiến lược, ông Trần Quốc Hương. Phải công nhận bọn Mật vụ Ngô Đình Cẩn giỏi thật. Tại sao mình không dám nói là địch giỏi nếu thực sự nó giỏi, mà cứ phải vòng quanh chơi chữ để hạ thấp nó xuống và tìm cách che đậy, tự tôn mình lên.
Địch giỏi ở chỗ nào? Trước hết ở chỗ tác động vào quần chúng làm cho quần chúng buộc phải tố cáo việt cộng thực hay chỉ nghi việt cộng. Sau là chủ trương gọi là chuyển hướng những người kháng chiến cũ dựa vào tình thế khách quan: những sai lầm trong cải cách ruộng đất, phản bội kháng chiến, tính cách lỗi thời của chủ nghĩa cộng sản để thuyết phục cán bộ, đảng viên.”
(Dư Văn Chất, ibid., Chương Mở đầu. So sánh.)
Nhưng so với chiến dịch Phượng Hoàng sau này của Mỹ thì số nạn nhân của Ngô Đình Cẩn hẳn là không nghĩa lý gì.
Còn nếu so với số nạn nhân do cộng sản giết hại thì hẳn đó là một con số vô nghĩa như trong Cải Cách ruộng đất, v.v...
Cuộc chiến nào mà không đẫm máu mà không tàn bạo, mà không đầy những âm mưu, những thủ đọan, những vụ tàn sát? Tôi từng xem những kháng chiến quân Pháp mang ra xử bắn hàng loạt những người bị tình nghi hoạt động cho Đức mà không qua một tòa án nào. Thời Việt Minh mới nổi lên, những gia đình có chút của cải bị Việt Minh mang ra xử bắn, cho vào rọ trôi sông chỉ vì không cung cấp một nải chuối, một con gà cho du kích đang đóng chốt ở trong nhà. Đó là những câu chuyện có thật 100%.
Tôi cũng đọc một tài liệu của Anthony Cave Brown viết về chiến tranh bí mật trong thế chiến thứ hai: La guerre secrète. Trong đó mọi chuyện đều có thể cho thấy Mật vụ Ngô Đình Cẩn chỉ là một cái xấu đi nữa, vẫn là một cái xấu cần thiết trong một cuộc chiến mà mọi phương tiện để tiêu diệt kẻ thù đều có thể. Như lời của Winston Churchill được trích dẫn trong sách để kết thúc bài viết này. Dịch sơ lược.
“Ở mức độ cao nhất của các hoạt động tình báo, các sự kiện có thực trong nhiều trường hợp đã xảy ra dưới nhiều bộ dạng khác nhau, do nhiều những sáng kiến cực kỳ kỳ diệu mà người ta có thể chỉ tìm thấy trong các tiểu thuyết phiêu lưu hay trong các kịch bản. Các thủ đoạn lồng trong các thủ đoạn, các âm mưu và phản âm mưu, sự xảo trá, phản trắc, nhân viên tình báo thật và phản tình báo, tình báo nhị trùng, với việc xử dụng vàng bạc, sắt thép, bom đạn, dao găm, các cuộc xử bắn đan xen vào nhau như một hệ thống rất phức tạp đến độ không tin là có thật, trong khi nó là thực sự như vậy. Các vị đầu não cũng như các sĩ quan cao cấp của ngành mật vụ thích thú với những công việc bí mật phức tạp như trong các việc ở dưới lòng đất và theo đuổi các công tác của họ với sự đam mê một cách lạnh tanh và hoàn toàn bí mật.”
(Anthony Cave Brown. La guerre secrète. Le rempart des mensonges. 1975, trang 35)
Hoạt động Mật vụ Ngô Đình Cẩn chắc hẳn chưa đạt đến tình trạng tinh vi và nhà nghề như thế của các nước đồng minh trong Thế chiến thứ hai.
Phải chăng chúng ta quá ngây thơ, khờ khạo, hoặc quá thiên về đạo đức, hoặc bị cộng sản tuyên truyền nên đã coi cơ quan Mật vụ của Ngô Đình Cẩn như những hung thần của chế độ?
Còn nếu không như thế thì nên trả lại công đạo cho Ngô Đình Cẩn và đám Mật vụ. Họ đã chu toàn một nhiệm vụ đày khó khăn trong một cuộc chiến tranh toàn diện mà ngành điệp báo- dù còn non nớt, sơ khởi- là tối cần thiết và không thể thiếu được.
Cộng sản đã thắng miền Nam thời Đệ Nhị Cộng Hòa vì ngành điệp báo tỏ ra yếu kém, để cộng sản xâm nhập vào khắp nơi trong bộ máy chính quyền miền Nam.
Và nên chăng có một bông hồng bên mộ bia Ngô Đình Cẩn thay vì những lời nguyền rủa?

Nguyễn Văn Lục

https://sites.google.com/site/gsnguyenvanluc

http://dcvonline.net/

* Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Trường hợp kỳ lạ của ông Ngô Đình Cẩn

Trà Mi


John_H
Hình cựu Lãnh sự Mỹ John J. Helble tại Huế 1963

"Hơn nữa, tôi đã nói với Bộ Ngoại Giao rằng, chiếu theo Cẩm nang Ngoại giao [FAM], một Lãnh sự quán không thể nhận người xin tị nạn và chúng tôi cũng không có thẩm quyền theo luật pháp quốc tế".
Ông Ngô Đình Cẩn tại tòa án quân sự (Saigon  /4/1964). Nguồn UPI

“Tòa lãnh sự Mỹ quyết định trao trả Ngô Đình Cẩn cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Sáng ngày 5 tháng 11 năm 1963, tướng Đỗ Cao Trí cùng với một sĩ quan Mỹ và sĩ quan Việt Nam Cộng hòa đưa Ngô Đình Cẩn và mẹ ông này lên máy bay đi Sài Gòn theo lệnh của Hội đồng Quân nhân Cách mạng.”
Trên đây là một đoạn trích từ bài Huế – những tháng ngày sục sôi – Kỳ 6: Số phận Ngô Đình Cẩn, của Nguyễn Đắc Xuân, viết trên Báo Tuổi Trẻ ngày 10/01/2012.
Sự thật như thế nào? Hãy nghe một nhân vật trong cuộc, có mặt ở Huế, liên quan trực tiếp đến sự kiện kể lại. Người đó là John Helble.
John Helble, Lãnh sự Mỹ tại Huế (1961-64) là người đã phản đối đề nghị cho ông Ngô Đình Cẩn tị nạn tại tòa lãnh sự ngược với quyết định của của Bộ Ngoại Giao Mỹ lúc đó.
John Helble sinh năm 1934 và lớn lên ở Wisconsin, làm việc với ngoại giao đoàn Hoa Kỳ từ năm 1956. Trước khi sang Việt Nam (1959-64) công tác John Helble đã làm việc tại Venezuela. Trở về Mỹ tu nghiệp một năm tại đại học Chicago sau đó John Helble làm việc tại bộ Ngoại giao từ 1965-1968 về các vấn đề liên quan đến Việt Nam. Cuối cùng, 1968-1985, ông công tác ngoại giao tại Mã lai, Thái Lan, Miến Điện, Bangladesh, và Honolulu trước khi nghỉ hưu về Virginia trồng nho và hoa hồng.
John Helble đã được Thomas F. Conlon phỏng vấn vào ngày 5 tháng Tư năm 1996. Dưới đây là phần trích dịch lời ông John Helble thuật lại việc tị nạn của ông Ngô Đình Cẩn.

Một cử chỉ rộng lượng của một người độc tài
Ông có bao giờ có quan hệ mật thiết với ông Cẩn không?
Tôi chỉ gặp ông Ngô Đình Cẩn một lần. Tôi đã được người tiền nhiệm, Tom Barnes cảnh báo là ông Cẩn không nhận tiếp Lãnh sự Mỹ. Vì vậy, tôi đã kiên nhẫn chờ đợi cả ba tháng sau khi tôi đến Việt Nam. Đến tháng Chín, năm 1961, tôi đã tìm được một người là cố vấn hàng đầu của ông Cẩn và người mà tôi có thể liên hệ trực tiếp. Tôi đã hỏi ý kiến của ông ta và nói với ông ấy rằng tôi muốn điện thoại cho ông Cẩn. Tôi nói rằng tôi muốn có cơ hội thảo luận với ông Cẩn về một số các vấn đề của khu vực, về tình hình địa phương, và những điều như vậy. Một thời gian sau đó người trung gian này đã trở lại liên lạc với tôi và nói rằng ông Cẩn không thể gặp tôi. Tuy nhiên, ông cho rằng nếu muốn, tôi có thể viết xuống một số câu hỏi, và ông Cẩn sẽ sẵn sàng trả lời tôi bằng văn bản. Tôi quyết định rằng đó không phải là một phương pháp hữu ích, vì vậy tôi đã không làm theo đề nghi đó.
Hinh chụp từ trên cao Lăng Vua Tự Đức, Huế. Nguồn: adst.org
Hinh chụp từ trên cao Lăng Vua Tự Đức, Huế. Nguồn: adst.org

Tôi có thể nói rằng Cẩn, người nổi tiếng được coi là có ác cảm với người ngoại quốc nói chung, đã làm một số cử chỉ, hoặc những gì tôi tôi cho là cử chỉ, “chấp nhận” tôi trong cộng đồng, ít nhất là đối với ông ấy. Vì vậy, tôi kết luận rằng tôi đã chưa làm bất cứ điều gì đã quá “sai”. Ví dụ, vào dịp Giáng sinh ông Cẩn đã cho tôi gửi một giỏ lớn thức ngon Việt Nam gồm giò sống với gia vị gói trong lá chuối. Đây là món thường được ăn kèm với “nước mắm” nổi tiếng của Việt Nam.
Một lần tiếp xúc khác trực tiếp với ông Cẩn … là một đặc ân mà ông ấy đã giành cho tôi và vợ tôi. Thực sự đó là một cử chỉ rộng lượng. Nó liên quan đến cái chết của con gái chúng tôi tại Việt Nam. Khi cháu mất, chúng tôi nghĩ đến một nơi lý tưởng để an táng con gái nằm trên sườn đồi ở phía trước của lăng vua Tự Đức, nhìn ra sông Hương, với với một góc nhìn tuyệt vời ở phía tây bắc hướng về những rặng núi Việt Nam, phía sau cánh rừng và dòng sông yên tĩnh và thơ mộng này. Tôi biết rằng vùng đất tôi định dùng làm nơi chôn cất con gái của chúng tôi là đất của ông Ngô Đình Cẩn. Trừ một cái hầm cũ từ thời Pháp thuộc vẫn nằm trong khu vực, nói chung không có cấu trúc nào khác ở đó. Đó là một khoảng đất trống, có một vài cây chà thông. Phó Lãnh sự của tôi, một nhân viên CIA, đã xin đươc phép của ông Cẩn cho chúng tôi chôn con gái của chúng tôi ở đó. Đó chắc chắn không phải là một điều mà ông Cẩn phải làm…

Thiết Quân luật sau cuộc đảo chính
Ngày 1 tháng 11 năm 1963 là ngày quân nhân đảo chánh Tổng thống Diệm.
Saigon Round Up (08 November 1963) - William Colby Collection

Thành phần Hội đồng Quân nhân Cách mạng và Chính phủ VNCH Lâm thời. Nguồn: Saigon Round Up (November 8, 1963) – William Colby Collection

Thiết quân luật áp dụng ngay tại Huế. Tuy nhiên, khi cuộc đảo chính thành công khá nhanh thì thiết quân luật không còn có ý nghĩa nữa. Dân chúng trong hầu hết các nhóm ở Huế hân hoan đón mừng cuộc đảo chính thành công. Tình hình an ninh ổn định. Không có bạo động hay những sự kiện bất lợi. Với sự “giải phóng” – như nhiều người đã nghĩ – khỏi chế độ và tình hình thoải mái ngay sau đó, nói chung, người dân quan tâm chính đến việc thả bất kỳ tù nhân chính trị nào họ đã tìm được. Có một số tù nhân loại này đã được thả, nhưng tôi không có bất cứ một dự toán nào về con số.
Một trong những điều gây ấn tượng hơn cả xảy ra vào cuối buổi chiều sau cuộc đảo chính vào ngày 3 tháng 11, 1963, là việc khám phá ra một nhà tù kinh khủng cách Huế khoảng một hoặc hai dặm về phía Tây, về hướng của các lăng tẩm của triều đình. Hóa ra là đã có một số người bị giam giữ ở một khu vực trước đó là kho đạn của Pháp. Khi tìm ra nhà tù này một số tù nhân đã được phóng thích. Người dân Huế ùn ùn kéo hau đến đây coi. Tôi cũng đã đến đó xem. Các hầm chứa đạn nằm sâu trong một sườn đồi và đã được sửa thành các phòng giam dài khoảng gần 2 m, rộng khoảng 1 m và cao cũng khỏang 1 m. Phòng giam chỉ có nền trống, không có bàn ghế – không có gì trong đó, ngoại trừ phân người và rác rưởi đã tích tụ ở đó. Mỗi phòng giam có một cánh cửa khóa. Những phòng giam này có thể đã rất là khó ở…
Ngay cả người Việt Nam cũng không thể đứng thẳng?
Ngay cả người Việt Nam cũng không thể đứng thẳng người lên trong đó. Điều này, tất nhiên, đã gây phẫn nộ hơn nữa với sự thái quá của chế độ trước đó. Phe quân nhân chính đã bắt giam hay quản thúc tại gia để hạn chế sự di chuyển của một số những viên chức chính phủ cũ. Tuy nhiên, không có những vụ bắt bớ quy mô lớn. Một số người đã bị bắt, nhưng không nhiều. Phe đảo chính lo rằng có thể có một số người của chính phủ cũ trong quân đội, là những người có thể lật ngược cuộc đảo chính. Tuy nhiên, những lo ngại đó hóa ra là không có cơ sở.
Có một tin tình báo cho hay “Lực lượng Nhân dân” của ông Ngô Đình Cẩn sẽ tìm cách trả thù và đã xác tín là người Mỹ phải chịu trách nhiệm cho cuộc đảo chính lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Cộng đồng người Mỹ ở Huế có thể ở trong tình trạng đe dọa. Tôi cảm thấy rằng điều này rất khó xảy ra, tuy vậy cố vấn cao cấp của Sư Đoàn 1 QLVNCH, Đại tá Ed Markey, đã thận trọng, và quyết định yêu cầu vị chỉ huy quân sự mới, Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn I, người đã có mặt tại Huế, đưa lính bảo vệ quanh tất cả các khu dân cư và các cơ sở của Mỹ. Khi tôi thấy một tiểu đội binh sĩ VNCH được đưa vào trong sân nhà tôi với mục đích này, đồng thời tôi được một trung úy cho biết là họ thi hành lệnh của bộ chỉ huy; tôi đã đi kiếm Đại tá Markey và nói một cách rõ ràng rằng ông ta không có quyền yêu cầu quân đội Việt Nam đưa lính gác quanh nhà ở của người Mỹ và cơ sở của Mỹ. Sau đó, tôi đã đến gặp Tướng Đỗ Cao Trí và yêu cầu ông rút ngay lập tức những binh lính đang ở khu của Mỹ. Tướng Trí đã đồng ý với yêu cầu của tôi. Điều này gây ra khó chịu cho Đại tá Markey. Sau khi vấn đề được bàn thảo tại Sài Gòn, trong vòng khoảng một tuần Đại tá Markey đã được thuyên chuyển đi nhận nhiệm vụ khác tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Tháng 9-1963: Thiếu tướng Đỗ Cao Trí, 9-1963 (L-R) Brig. Gen Do Cao Tri, Gen. Maxwell D. Taylor & Secy of Defense Robert S. McNamara, as they question a Viet Cong guerrilla. Nguồn: LIFE magazine

Tháng 9-1963: Thiếu tướng Đỗ Cao Trí, đại tướng Maxwell D. Taylor & Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert S. McNamara, đang thẩm vấn một cán binh Việt Cộng. Nguồn: LIFE magazine

Cho một người độc tài bị khinh miệt tị nạn
Không có gì đáng chú ý đã xảy ra trong 24 giờ sau đó. Rồi có ba người, riêng rẽ, đến yêu cầu tôi cho ông Ngô Đình Cẩn, chưa bị bắt và đang đang ẩn trốn được “tị nạn” tại Lãnh sự quán của chúng tôi. Tôi trả lời cho từng người đến yêu cầu là tôi sẽ xem xét điều này. Ngay lập tức, tôi báo tin về cho Bộ Ngoại giao ở Hoa Thịnh Đốn biết những cuộc tiếp xúc vừa xảy ra; Tôi báo cáo với Bộ Ngoại giao rằng, thứ nhất, tôi không thể biết chắc được căn cước thực của ba người vừa gặp. Dù tôi biết cả ba người đó ở những mức độ khác nhau, nhưng tôi không biết liệu một hoặc hai trong ba người đó có thể là phản gián hoặc là họ đã không nói thực mục đích của họ khi đến gặp tôi.
Hơn nữa, tôi đã nói với Bộ Ngoại Giáo rằng, chiếu theo Cẩm nang Ngoại giao [FAM], một Lãnh sự quán không thể nhận người xin tị nạn và chúng tôi cũng không có thẩm quyền theo luật pháp quốc tế. Theo FAM, định nghĩa tị nạn cho một ngoại giao đoàn rất giới hạn, chỉ trong những trường hợp người xin tị nạn đang gặp nguy hiểm đe dọa đến tính mạng. Ví dụ, một người đang bị một đám đông giận dữ đuổi bắt. Tuy nhiên, ngay cả trong những hoàn cảnh như thế, sau khi tình hình không còn nguy hiểm nữa thì người xin “tị nạn” lập tức phải được đưa ngay ra khỏi Lãnh sự quán có nghĩa là đưa ra khỏi cửa.
Tôi cũng cho hay dưới quan điểm chính trị, người ở Huế, cũng như dân chúng ở những nơi khác, chắc chắn đã thấy nhẹ nhõm sau cuộc đảo chánh loại bỏ chính phủ của ông Diệm. Họ đã không ưa gì ông Cẩn và sự cai trị độc tài của ông từ nhiều năm qua. Để ông Cẩn tị nạn sẽ không cải thiện hình ảnh của người Mỹ ở Huế và khu vực xung quanh. Hơn nữa, tôi cũng báo cáo rằng nếu ông Cẩn được cho tị nạn ở Lãnh sự quán thì mọi người sẽ biết ngay, và tin tức sẽ lan nhanh như cháy rừng ở Huế. Với tình cảm của người dân ở Huế, những người vừa thấy những điều kiện khắc nghiệt của nhà tù … và nhiều người khác có nhiều phàn nàn, oán hận ông Cẩn, người dân Huế có thể quyết định giành quyền tự họ xử ông Cẩn. Vị trí của Lãnh sự cũng khó mà bảo đảm được an ninh cho Lãnh sự quán, nhân viên hoặc, thực sự, bất cứ ai trong cộng đồng người Mỹ ở Huế vào thời điểm đó.
Có sự trao đổi giữa tôi và bộ Ngoại giao. Tôi đã nhận được một phản ứng, từ Washington, nhưng không dứt khoát. Họ hỏi thêm một số câu hỏi khác. Tôi đã trả lời những câu hỏi đó và nhắc lại quan điểm của tôi rằng chúng ta không nên chấp nhận yêu cầu này, thậm chí nếu có một hoặc nhiều hơn những lời yêu cầu [để ông Cẩn tị nạn ở Lãnh sự quán] là những yêu cầu thực.

Điện tín từ Lãnh sự Mỹ ở Huế gởi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, 4/11/1963

Trong vòng 36 giờ, tôi đã được lệnh để cho ông Cẩn tị nạn. Khi ông Cẩn đến Lãnh sự quán, tôi phải hỏi xem ông ấy muốn đi tị nạn ở quốc gia nào. Tôi được yêu cầu phải thông báo cho bộ Ngoại giao và tòa Đại sứ ngay khi ông Cẩn đến Lãnh sự quán và quốc gia ông chọn đi tị nạn. Khi được lệnh của bộ Ngoại giao, tôi cũng đã liên lạc với tòa Đại sứ ở Sài Gòn. Trong số những lần liên lạc đó tôi đã dùng điện thoại trên đường dây không bảo mật. Cố gắng nói chuyện bằng mật mã có lẽ là vô dụng, nhưng tôi đã ráng làm như vậy. Đại sứ quán đã cho tôi biết rằng họ sẽ gửi một máy bay vận tải C-46, một máy bay của CIA, đến sân bay Phú Bài ở Huế Nam sau khi ông Cẩn đến Lãnh sự quán.
“Tôi đã có chim trong lồng” – ông Cẩn đến Lãnh sự quán
Sau đó tôi đã liên lạc với người mà tôi coi là đáng tin cậy nhất trong số ba người đã đế gặp trước đây. Tôi báo với người ấy biết rằng tôi sẵn sàng nhận ông Cẩn [tị nạn] tại Lãnh sự quán. Ông ta đã liên lạc lại với tôi không lâu sau đó và nói rằng ông Cẩn sẽ ngụy trang đến Lãnh sự quán với một linh mục là người sẽ lái xe, lúc 11:00 sáng, nếu tôi nhớ đúng, vào thứ ba, tôi tin rằng đó là ngày 5 Tháng 11 năm 1963. Ông Cẩn thực sự tới tại Lãnh sự quán một giờ sau đó. Ông nằm trên ghế sau của một chiếc Citroen cũ. Tài xế là một linh mục Việt Nam.
Tôi đón ông Cẩn tại lối vào phía trước hiên nhà của Lãnh sự quán và mời ông lên lầu, và cố che để ông không bị một số nhân viên địa phương của tôi dòm ngó. Những nhân viên Việt Nam làm việc trong một văn phòng bên phải lúc tôi đưa ông Cẩn lên cầu thang. Tôi không biết sự kín đáo che chắn cho ông Cẩn của có thành công hay không. Ngay lập tức, tôi đặt câu hỏi với ông Cẩn câu hỏi về nơi “an toàn” ở nước ngoài mà ông muốn đi. Ông trả lời tôi tức thì, “Tokyo”.
Cũng ngay lúc đó tôi nhận được điện thoại của một nhân viên của tôi ở tòa Lãnh sự cho hay Tướng Đỗ Cao Trí đang có mặt dưới nhà và muốn gặp tôi. Tôi để Jerry Greiner, một Phó Lãnh sự CIA ở lại với ông Cẩn và đi xuống cầu thang để gặp Tướng Trí trong phòng tiếp tân nhỏ của chúng tôi. Tướng Trí bắt đầu bằng cách nói ngay, như thói quen của ông, là tôi “đã có” ông Ngô Đình Cẩn trong tòa Lãnh sự và ông, Tướng Trí, “muốn bắt” ông Cẩn. Tôi nói với Tướng Đỗ Cao Trí là dù tôi có Ngô Đình Cẩn hay không, đó là một vấn đề quan tâm của tôi và không phải của ông (tướng Trí). Sau đó Tướng Trí nói rằng, trong tình hình hiện nay ở Huế, à nhiều người không ưa ông Cẩn, nếu người dân Huế biết ông Cẩn có mặt trong Lãnh sự quán, thì ông (Tướng Trí) không thể bảo đảm sự an toàn của Lãnh sự quán hoặc của cộng đồng người Mỹ tại Huế nói chung. Ngay lập tức, tôi trả lời rằng đó là rõ ràng trách nhiệm của Tướng Trí phải bảo đảm sự an toàn của Lãnh sự quán, các cơ sở Mỹ, và các nhân viên Mỹ tại Huế. Và cùng lúc, tôi đã chính thức yêu cầu Tướng Trí nhận bảo đảm như vậy và tôi sẽ ngay lập tức báo cáo chuyện này với Đại sứ quán ở Sài Gòn và câu trả lời của tướng Trí. Ông Tướng không nhận bảo đảm anh ninh như tôi đã yêu cầu. Tôi nhắc lại rằng đó là trách nhiệm của Tương Trí, và tôi mong ông ấy làm như vậy, và đây là liên lạc và trao đổi chính thức về việc đó.
Sau đó Tướng Trí rời khỏi Lãnh sự quán. Tôi quay lại để thảo luận tình hình với ông Cẩn, nhưng cũng không có gì nhiều hơn để tôi cần phải nói chuyện với ông Cẩn, một khi chúng tôi đã xác định rằng Tokyo là nơi ông muốn đi. Tôi lập tức gọi Đại sứ quán ở Sài Gòn và thông báo với họ rằng: “Tôi đã có chim trong lồng”. Họ cho tôi biết rằng trong vòng hai giờ, chiếc C-46 sẽ đến sân bay Phú Bài, và tôi phải có mặt ở đó với ông Cẩn. Tôi ngay lập tức đã gửi một điện văn cho Bộ Ngoại giao nói rằng ông Cẩn đang ở Lãnh sự quán.
Tôi gọi một cố vấn Mỹ cao cấp của Sư Đoàn 1 QLVNCH, phó của ông, và một nhân viên CIA đồng nghiệp của tôi Phó Lãnh Greiner vào họp. Chúng tôi đã đề ra một kịch bản để một đoàn xe đưa ông Cẩn đến sân bay Phú Bài, cách Lãnh sự quán khoảng 14 km. Đoàn xe gồm có một chiếc xe jeep với một binh sĩ và một sĩ quan đi trước, tiếp theo là xe chính thức của tôi có viên cố vấn cao cấp của quân đội Mỹ, CIA Phó Lãnh sự, tôi, và ông Cẩn, và một chiếc xe jeep quân đội Mỹ có một binh sĩ và một sĩ quan, đi sau xe chúng tôi.

Cuộc chạy thoát không thành
Chúng tôi rời khỏi Lãnh sự quán chỉ đủ thời gian để đến sân bay Phú Bài cùng với giờ ước tính chiếc máy bay C-46 sẽ đến. Không có chuyện gì xảy ra trong chuyến đi đến sân bay. Chúng tôi đã không gặp phải bất kỳ khó khăn nào. Chúng tôi đưa ông Cẩn trên máy bay. Tôi đã sắp xếp với Phó Lãnh sự Jerry Greiner để đi cùng với ông ấy, và tôi ra lệnh cho cho Jerry giao ông Cẩn lại cho Đại sứ quán và chỉ giao cho Đại sứ quán.
Greiner và ông Cẩn bay đến sân bay Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn. Khi cánh cửa mở ra, Greiner thấy chiếc máy bay đã đáp bên phía quân sự của sân bay Tân Sơn Nhứt và có đoàn quân khá lớn của quân đội VNCH vây xung quanh máy bay, và hai xe vận tải 2 tấn ½ bít bùng của QLVNCH ở cạnh bên.
Thiếu tá điệp viên CIA Lucien Conein, Nguồn: OntheNet
Thiếu tá điệp viên CIA Lucien Conein, Nguồn: OntheNet

Greiner được Lucien Conein, một sĩ quan CIA nổi tiếng, đón tiếp và nói với ông, “Được rồi, Jerry. Từ đây để tôi lo.” Jerry đã khẳng định rằng Conein không phải là Đại sứ quán và nói với Conein rằng Lãnh sự đã ra lệnh giao ông Cẩn lại cho Đại sứ quán.
Conein nói, “Vâng, cứ làm theo cách ông muốn, nhưng đây là phương tiện vận chuyển của các ông.” Vì vậy, Greiner và ông Cẩn leo lên một trong những chiếc xe tải 2 tấn rưỡi. Bạt vải đã đóng lại, và họ lái xe đi. Sau khoảng 15-20 phút, xe vận tải dừng lại, tấm bạt cửa xe mở ra, và Greiner thấy ông đã ở giữa khoảng gần một tiểu đoàn của quân đội VNCH trong một căn cứ của quân đội VNCH, ở một nơi nào đó ở Sài Gòn.
Conein lại xuất hiện và nói, “Đây là đoạn cuối của con đường.” Greiner không còn lựa chọn nào khác hơn là phải chấp nhận hoàn cảnh lúc đó.
Đó là tất cả sự tham gia trực tiếp của tôi và của Lãnh sự quán Mỹ tại Huế trong chương “tị nạn” của ông Cẩn. Như lịch sử cho thấy, cuối cùng ông Cẩn đã bị chính quyền quân sự Việt Nam đem ra tòa án quân sự xử, bị kết án tử hình và đã bị xử bắn.

Suýt làm dê tế thần
Bị xử bắn?
Ông Ngô Đình Cẩn, 53 tuổi, tại tòa án quân sự tại Sài Gòn, 23 tháng 4, 1964. Nguồn AP.
Bằng cách xử bắn. Những sự kiện này xảy ra ở Sài Gòn, và không có liên quan đến tôi – với một ngoại lệ.
Ngay sau khi xử bắn ông Ngô Đình Cẩn, đã có rất nhiều người ở Hoa Kỳ bất bình, phần lớn từ các cộng đồng Công giáo, nhưng những cũng có những người khác, những người thấy rằng gia đình họ Ngô đã phải chịu đựng quá đủ sau cuộc đảo chính, với ông Diệm và ông Nhu đã bị giết. Nó cho thấy Mỹ đã liên can vào vấn đề này bằng cách bắt ông Cẩn, giao ông lại cho chính quyền mới của Việt Nam, và sau đó “đứng yên” trong khi ông bị kết án và xử tử. Điều này với người Mỹ là hành động, chính sách sai lầm của Mỹ – hoặc một sự kết hợp của cả hai, hành động và không hành động.
Một người bạn của tôi, Larry Pezzulo, Tùy viên ở tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, sau đó nói với tôi về một sự kiện đã xảy ra khoảng hai ngày sau khi ông Cẩn bị xử bắn. Pezzulo liên can đến vụ việc này vì ông ấy là Tùy viên Trực của Đại sứ quán vào thời điểm đó. Một bức điện “khẩn cấp” gởi đến Đại sứ quán, trong khi Larry Pezzulo đang trực, và phải gửi đến ngay cho Đại sứ Henry Cabot Lodge. Pezzulo đem bức điện khẩn đến tư dinh của Đại sứ Lodge.
Tại nhà Đại sứ đâu đó ở Saigon, Đại sứ Lodge và Phó trưởng phái đoàn ngoại giao Mỹ, Bill Trueheart, đang trong bữa ăn.
Pezzulo gọi họ ra khỏi bữa ăn tối, cho họ xem bức điện tín, và cả hai cùng đọc. Đại sứ Lodge và Bill Trueheart dường như rất quan tâm vì họ đang bi “rắc rôi” chính trị. Theo lời Pezzulo kể với tôi thì Đại sứ Lodge hỏi Bill Trueheart, “Ông nghĩ chúng ta phải làm gì về vấn đề này?” Trueheart nói, trước mặt Pezzulo, rõ ràng là chúng ta cần một vật tế thần – một con dê để đổ lỗi. Trueheart được cho rằng đã nói, “Rõ ràng, Lãnh sự của chúng ta ở Huế có thể là một khả năng dùng được.”
Pezzulo hoảng hốt trước nhận định này, vì anh ấy biết rất rõ chuyện ông Cẩn với tôi. Chúng tôi đã thảo luận về vấn đề ông Ngô Đình Cẩn ở Sài Gòn trong một chuyến tôi về Sài Gòn sau cuộc đảo chính nhưng trước các sự kiện của buổi tối đặc biệt này xảy ra. Nhưng kết cuộc không có chuyện gì xảy ra cả. Đó là một dấu hiệu nữa cho tôi thấy người ta không những cần nhiều may mắn, mà còn phải cẩn thận, để có thể thoát khỏi một số vấn đề có thể gây nguy hiểm cho sự nghiệp ngoại giao của mình.
Ông đã bao giờ tìm biết về nội dung bức điện tín đó hay không? Ông đã bao giờ nhìn thấy nó chưa?
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó.
Ông có bất kỳ ý tưởng nào về nội dung của bức diện tín không?
Đó là một bức điện tín từ Bộ Ngoại giao cho hay về sự “náo động” ở Hoa Kỳ về trường hợp ông Ngô Đình Cẩn. Đại sứ quán đã được yêu cầu của Bộ Ngoại Giao đề nghị những phương án cho Hoa Thịnh Đốn ứng xử trước tình hình “náo động” này. Tôi có thể nói rằng, trong những năm giữa thập niên 1960, sau khi tôi đã trở về Hoa Kỳ và đã làm việc về các vấn đề Việt Nam, tôi đã có dịp thảo nhiều câu trả lời cho rất nhiều thư từ của công chúng và yêu cầu của Quốc hội. Trong nhiều trường hợp thuộc những vấn đề mà tôi phụ trách là những sự việc liên quan đến vụ ông Ngô Đình Cẩn vì có nhiều người ở Mỹ tiếp tục đặt vấn đề với những gì họ coi là một “hành động bội bạc” của Hoa Kỳ và vẫn còn phàn nàn về nó. Vì tên của tôi bị coi là có liên quan đến sự kiện đó, trong nhiều bài viết khác nhau vào thời điểm đó, tôi đã thường xuyên trả lời thư, không phải cho chính tôi, mà với chữ ký của những người chức cao hơn tôi, trả lời những vấn đề mà trong đó tôi đã bị buộc tội. Đây không phải là điều mà tôi phải lo lắng nhiều, nhưng nó là một chú thích cho sự việc này.
Có vẻ những việc đó không làm tổn thương ông nhiều lắm. Đề nghị của ông phù hợp với Cẩm nang Ngoại giao và là một đề nghi đúng, đúng về cả lịch sử và truyền thống của chúng ta. Tôi nghĩ rằng quyết định đầu tiên cấp tị nạn cho ông Thích Trí Quang trong Đại sứ quán sau cuộc tấn công chùa ngày 21 tháng 8 (1963) là một sai lầm. Quyết định cấp tị nạn cho Hồng Y Mindszenty ở Hungary trong tòa công sứ của chúng ta ở Budapest sau Cuộc nổi dậy ở Hungary năm 1956 cũng là một sai lầm. Tôi nghĩ rằng quyết định cho ông Ngô Đình Cẩn tị nạn tại Lãnh sự quán tại Huế là một sai lầm. Chúng ta không thể hành động như thế. Đó không phải là truyền thống hay tập tục của chúng ta…
____________
Nguồn: 1. Thomas F. Conlon, Interview JOHN J. HELBLE, The Association for Diplomatic Studies and Training Foreign Affairs Oral History Project, April 5, 1996, pp 87-93, Copyright 1998 ADST.
2. FRUS, 1961-1963, Volume IV, Vietnam, August-December 1963, 291. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State, November 4,1963 8 p.m.
3. FRUS, 1961-1963, Volume IV, Vietnam, August-December 1963, 292. Telegram From the Consulate at Hue to the Department of State, November 4,1963 10 p.m.

© 2015 DCVOnline

*Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net

http://www.dcvonline.net

 

Đăng ngày 05 tháng 06.2017