Điểm sách

Tù Binh và Hòa Bình

của Phan Nhật Nam

Bài điểm sách này được biên soạn để phát thanh trên đài V.O.V.N. vào đầu thập niên 90. Bây giờ xin phổ biến trên Internet để chào mừng tác phẩm Tù Binh và Hòa Bình được Bộ Hải Quân Hoa Kỳ ấn hành.
Điệp Mỹ Linh


Đối với người Việt từ bốn hoặc năm mươi tuổi trở lên, khi nói đến tác phẩm của Phan Nhật Nam là chúng ta nghĩ đến nỗi bi thương thống hận của người Lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), nỗi trầm luân của Quê Hương và nỗi đọa đày của cả một dân tộc!
Bất cứ thời gian nào và không gian nào, mỗi tác phẩm của Phan Nhật Nam đều cho người đọc cái cảm tưởng như từng dòng chữ còn ngùn ngụt khói chiến trường, còn ầm ì tiếng đại pháo, còn váng vất mùi máu từ vết thương đang làm độc của thương binh VNCH bị vây khốn trong vòng rào tử thủ!

Trong Tù Binh và Hòa Bình, ngoài những điều như tôi đã trình bày ở đoạn trên, Phan Nhật Nam còn đưa ra những nhận định rất chính xác, những phân tích tỷ mỷ, những nhận xét không suy suyển và những cảm nghĩ đầy phẫn nộ về những sự kiện lịch sử liên quan đến hiệp định ngưng bắn ngày 27-01-73!
Ngòi bút của Phan Nhật Nam gắn liền với chiến trận, với đời Lính; và Phan Nhật Nam cũng từng là thành viên trong ủy ban liên hợp phụ trách vấn đề trao trả tù binh, cho nên, chúng ta có thể khẳn định rằng những gì Phan Nhật Nam viết ra có một giá trị vượt xa sự tương đối.

Chúng ta được may mắn là tác phẩm Tù Binh và Hòa Bình đã thoát khỏi vòng hủy diệt văn hóa do cộng sản Việt Nam (csVN) chủ xướng và tác phẩm này hiện đang được lưu hành dưới vòm trời Tự Do. Nhờ vậy, mai sau con em của chúng ta sẽ không bị csVN đầu độc bằng những trang sử ký xuyên tạc để chạy tội; vì chúng ta đang có trong tay 422 trang chi chít những dữ kiện quan trọng của một giai đoạn lịch sử đen tối. Trong 422 trang này Phan Nhật Nam khẳng định ở trang 100 rằng: “Tôi viết vì những điều tôi thấy, những rung động làm run tay, những phẫn nộ làm chóng mặt”.
Trước những sự kiện có thật được Phan Nhật Nam ghi lại một cách mạch lạc trong Tù Binh và Hòa Bình, tôi nghĩ, không ai là người không cảm thấy lòng mình se lại khi đọc xong.
Thật vậy, như đoạn viết về Huỳnh Tấn Mẫm – một trí thức trẻ thường khuấy động hậu phương, làm lợi cho csVN – khi Mẫm được chính phủ VNCH trao trả cho những người cùng “chí hướng phá hoại” như Mẫm, thì Mẫm lại xin về với gia đình tại Saigon! Và luật sư Việt cộng Nguyễn Long, khi được trao trả cho “phía bên kia”, Long lại dùng tiểu xảo, chỉ với mục đích làm bỉ mặt những nhân vật đại diện cho phía VNCH tại địa điểm trao trả tù binh. Còn nhiều nghịch lý mà người nào chưa thành Bồ Tát cũng thấy lòng mình gợn lên niềm phẫn nộ! CsVN bắt tù binh VNCH đi dân công, khai rộng con đường 458. Và, khi trao trả, người tù VNCH gầy còm, đau yếu cho đến độ không đủ sức nói lên hai tiếng “có mặt” khi họ được ủy ban trao trả gọi tên; còn những người tù csVN, trong thân thể hồng hào, nở nang, rắn chắc, khi được trao trả lại vung tay, to tiếng tố cáo “chế độ giam giữ hà khắc, tàn nhẫn của nhà giam Phú Quốc!”

Trong tất cả những điều bất nhân mà Phan Nhật Nam trông thấy và ghi lại, tôi nghĩ, có lẽ chưa điều nào làm cho trái tim Phan Nhật Nam rướm máu cho bằng lần Phan Nhật Nam trở ra Hà Nội. Thật vậy! Ngòi bút của những người xa Hà Nội từ năm 1954 đã tốn không biết bao nhiêu giấy mựt để viết về Hà Nội. Cho nên, trong chúng ta không ai là người không một lần mơ về Hà Nội. Riêng đối với Phan Nhật Nam, Hà Nội còn là chốn thiêng liêng mà Anh và thân mẫu của Anh phải bỏ lại theo lời khuyên kín đáo của thân phụ anh – một chiến sĩ sư đoàn 308 của trận Điện Biên Phủ.
Mười chín năm sau ngày Điện Biên Phủ thất thủ, Phan Nhật Nam viết về chuyến đi Hà Nội sắp đến: “...Chuyến đi Hà Nội như áng sáng chói lòa rọi thật rõ vào hệ thống ấn tượng dậy lên từ thời thơ ấu kéo dài theo đời người. Những ấn tượng về một quê hương xưa cũ...” (trang 40) Nhưng sau khi nhìn thấy sự tiêu điều tàn tạ của Hà Nội, Phan Nhật Nam viết: “... Tan vỡ rồi Hà Nội!... Tôi đi giữa lòng Hà Nội mưa bay không thấy phố phường, không thấy người, chỉ thấy thê thiết não nề dồn lên hơi thở. Trần Dần năm xưa thất vọng vì màu cờ đỏ quá mạnh lấn át phố phường Hà Nội... Tôi hôm nay đi trong lòng Hà Nội với đe dọa trùng điệp, cơn cảnh giác thường xuyên, trong không khí đồng nhất quái dị. Hà Nội thiên liên bí nhiệm vẫn còn nguyên hè xưa phố cũ nhưng đã tan vỡ đến đáy sững sờ!...”
Năm 1954 csVN ký hiệp định Genève với Pháp, chia cắt nước Việt Nam tại sông Bến Hải. CsVN ở ngoài Bắc. Quốc Gia ở trong Nam. Nhưng sau đó, chính csVN gây hấn, xâm phạm hiệp định Genève rồi xua quân ào ạc lấn chiếm miền Nam.
Mười chín năm sau, 1975, cũng chính csVN ký hiệp định ngưng bắn tại Ba Lê. Nhưng rồi: “Ngày 27-01-1973, khi giọt mựt cuối cùng chưa khô trên văn kiện ‘Tái lập hòa bình tại Việt Nam’ thì ở Việt Nam, đêm 27 rạng 28-01-1973, Thủy Quân Lục Chiến cường tập dứt điểm Tango (hay T) hay cửa Việt. Pháo 130 từ Đông Hà, Khe Sanh đổ xuống vùng Như Khê, Tân Lê, làm quân Dù Việt Nam Cộng Hòa  không thể ngóc đầu nổi. Ngày chủ nhật, 28-01-1973, toàn thể các quốc lộ vào Saigon đều bị đóng chốt...” (Trang 220)

Dạo còn ở Saigon, đọc báo, thấy Việt cộng bắn vào trực thăng mang dấu Hồng Thập Tự đang tản thương, tôi rất bất nhẫn. Nhưng liền đó tôi tự biện luận, có lẽ hai bên bắn nhau đạn lạc chứ làm gì có loại người tàn ác đến độ bắn vào trực thăng tản thương có mang dấu Hồng Thập Tự! Nhưng trong thời gian ngưng tiếng súng trên toàn lãnh thổ Việt Nam, trong khi trực thăng VNCH chở tù csVN đến Lộc Ninh – địa điểm trao trả tù binh – khi trở về, bị Việt cộng từ dưới đất bắn lên. Lần thứ nhất ngày 26-02-1973. Lần thứ hai ngày 07-03-1974 khiến một nhân viên phi hành Chinook CH 47 bị tử thương!
Vì những bất đồng nặng nề giữa VNCH và csVN trong vấn đề trao trả tù binh, để làm áp lực, Việt cộng pháo kích bừa bãi vào quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường, làm chết nhiều trẻ em và thường dân. “Ngày 09-03-1974, Việt Cộng pháo kích đạn 82 ly vào trường tiểu học Cộng Đồng Cai Lậy, gây thương vong cho 43 em và làm bị thương 70 em” (Trang 343) “Và trường tiểu học Long Phú ở Vĩnh Long, ngày 04-05-1974, Việt Cộng pháo kích, chết 17 em và 70 em bị thương.” (Trang 376)
Cũng trong thời gian này, tại vùng cận sơn Quãng Trị, Bắc quân ló mình lên khỏi “chốt”, ngoắc tay gọi lính Nhảy Dù và Sư Đoàn I Bộ Binh. Chiều nọ, một chàng csVN lững thững đi sang khu vực của đại đội 94 tiểu đoàn 9 Nhảy Dù, bắt tay thiếu úy Thắng và bảo rằng: “Tụi tôi không đánh ông đâu. Mình bồ mà.” Thiếu úy Thắng mời nước trà và thuốc quân tiếp vụ. Sau đó 12 quân nhân Thủy Quân Lục Chiến sang “chốt” Việt cộng thăm giao hữu; 12 quân nhân ấy không bao giờ trở về! “Không có tiếng súng, chỉ có âm động của lưỡi lê xuyên qua da thịt!” (Trang 379)

Nhưng trên tất cả mọi đớn đau, uất hận trong thời gian ngưng chiến là căn cứ Tống Lê Chân, do tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân biên phòng trấn giữ, dưới sự chỉ huy của một sĩ quan mới 25 tuổi – Lê Văn Ngôn – tốt nghiệp khóa 21 Võ Bị Quốc Gia Dalat. Trong số 259 quân nhân tại căn cứ, hết 75 người bị thương; nhưng 40 thương binh xin ở lại chiến đấu! Nhưng tính chất bi hùng của Tống Lê Chân không dừng lại ở đó. Tính chất bi hùng của Tống Lê Chân tiếp theo bằng những con số mà khi đọc xong người đọc phải thở ra, thẩn thờ: “... Căn cứ Tống Lê Chân bị pháo kích 233 lần, 20 lần bị tấn công biển người, 7 lần bị đánh đặc công và nhận 14 ngàn trái đạn đủ loại, nổ liên tục trong 220 ngày! Ngày 27-01-73 cũng là ngày N của cuộc tấn công cường tập vào Tống Lê Chân...Ngày 24-03-73 hai mươi thương binh đầu tiên và cuối cùng được di tản... Tống Lê Chân đóng cửa vĩnh viễn với nỗi bi hùng của nó!” (Trang 275)

Đây không phải là lần đầu tiên tôi đọc Tù Binh và Hòa Bình; nhưng hôm nay, sau khi đọc xong, gấp sách lại, tôi trầm mặc trong nỗi đau đớn vô tận của một người Việt Nam còn đủ lương tri! Những hành động dã man, tàn bạo của csVN làm tôi ghê tỡm họ! Vượt qua bao xảo trá, gian manh và dẫm lên không biết bao nhiêu máu xương của đồng bào và quân nhân miền Nam, cuối cùng người csVN cũng đã thực hiện được giấc mộng xâm lăng!
Suốt mấy mươi năm ngụp lặn trong hào quang đẩm máu đó, người csVN làm được gì cho Quê Hương, ngoài thành tích thiết lập không biết bao nhiêu nhà tù và đẩy ra biển cả vạn vạn người Việt? Trong những “chiến công” đó, không ai trong chúng ta là người không thấy được sự tiếp tay đắc lực của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và những nhà khoa bảng như Ngô Bá Thành, Nguyễn Long, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, v.v...
Một Nguyễn Hộ – trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam – với 40 tuổi đảng, khi tỉnh ngộ còn thành lập được Câu Lạc Bộ Kháng Chiến để tỏ thái độ đối kháng với csVN. Còn Ngô Bá Thành, Chân Tín, Nguyễn Long, Nguyễn Ngọc Lan, Hồ Ngọc Nhuận, v.v... nghĩ gì và nhận được gì từ csVN trong mấy mươi năm qua? Đấy, những hạng người đã góp không biết bao nhiêu công sức trong việc dọn đường cho Viêt cộng tiến vào Saigon mà suốt mấy mươi năm qua chưa người nào hưởng được chút bổng lộc huống gì những người “trở cờ muộn” như Nguyễn Văn Hảo và Phạm Đăng Long Cơ!
Thời kỳ Việt cộng vượt Trường Sơn, Việt cộng gọi là đi “B”. Vào đến miền Nam, anh bộ đội nào hồi chánh thì bị Việt cộng gọi là “B quay”. Tôi nghĩ, bây giờ, tập thể Việt Nam tỵ nạn còn ngần ngại gì mà không “tặng” cho Nguyễn Văn Hảo và Phạm Đăng Long Cơ một danh từ tương xứng như “ Hảo Quay” và “Cơ Quay”!

Trở lại với tác phẩm Tù Binh và Hòa Bình, năm 1974, Phan Nhật Nam viết tác phẩm này thì: “...Người cộng sản Việt Nam vẫn phải khó khăn đấu tranh với từng mẫu sắn, từng lon gạo, một hai điếu thuốc khô, dăm ba chiếc kẹo ngọt trên bước đường đấu tranh thần thánh thực hiện chủ nghĩa xã hội thì quả tình quá tội nghiệp... Cả một đội vận tải trên đường giây "chủ nghĩa xã hội" (đường mòn Hồ Chí Minh) phải hội ý từ 5 giờ chiều cho đến 9 giờ tối để đạt "tiêu chuẩn" "tiếp thu" 5 điếu thuốc. Đội vận tải gồm những kỹ sư, bác sĩ, những cán bộ mang quân hàm trung tá, thiếu tá, phải bình nghị, hội họp suốt bốn tiếng đồng hồ để đạt "tiêu chuẩn" phân chia 5 điếu thuốc Điện-Biên... Bữa cơm không có thịt trong suốt 18 năm của người dân Tuyên Quang miền Bắc, hai điếu thuốc lá được viên kỹ sư máy nổ "tiếp thu" trên đường giây "chủ nghĩa xã hội" như mặt trái của tấm gương phản chiếu những chữ nghĩa rực rỡ, nghe xa xăm như một giấc mộng mơ hồ...” (trang 90).

Đến năm 1975, sau khi cưỡng chiếm được miền Nam, cuộc sống của cán bộ và bộ đội đã khác hẳn. Và lớp người thay thế hình ảnh bi thảm có thật của Việt cộng do Phan Nhật Nam vẽ ra năm 1974 là tập thể quân nhân Quân Lực VNCH.
Khi đề cập đến sĩ quan Quân Lực VNCH, ngay như tướng Việt cộng Trần Công Mẫn, khi tiết lộ với Larry Engelmann trong cuốn Tears Before The Rain cũng phải xác nhận rằng: “Về những người lính bình thường của miền Nam thì họ đã mệt mỏi chiến tranh, họ phải kéo dài một trận chiến không đi đến đâu. Nhưng đối với các sĩ quan quân đội miền Nam thì tinh thần của họ cao hơn...”. Như sợ rằng mình lỡ lời, sẽ bị tự phê, tự kiểm, tướng Việt cộng Trần Công Mẫn tiếp: “...vì họ biết, nếu chiến tranh chấm dứt, sự nghiệp của họ cũng chấm dứt luôn”.
Câu “thòng” của tướng Việt cộng Trần Công Mẫn là một luận điệu yếu ớt, mượn ý từ nhận xét rất trung thực của Phan Nhật Nam về trung tá Việt cộng Bùi Thiệp: “Tưởng tượng cảnh Bùi Thiệp trở về làng xưa ở Bình Định với một túi vải kaki mang ở vai, dôi dép râu đế vỏ xe hơi dưới chân, nếu không có quân hàm trên vai với chút uy quyền tội nghiệp, Thiệp sẽ còn lại gì trước làng xưa tiêu tán, không gia đình, không vợ con, chỉ có chiếc bóng ngã dài trên đất vàng khô le lói chút nắng chiều... Thiệp không còn gì cả, quả thật vậy, chỉ còn những sợi tóc trắng chảy mềm trong kẻ tay!” (trang 37)
Lý do tôi xác quyết Trần Công Mẫn ăn cắp ý của Phan Nhật Nam là vì Phan Nhật Nam viết bút ký Tù Binh và Hòa Bình trước tháng Tư năm 1975; còn Trần Công Mẫn phát biểu câu nói ấy với Larry Engelmann sau tháng Tư năm 1975.
Điều phát biểu của tướng Việt cộng Trần Công Mẫn cũng cho thấy trình độ hiểu biết của ông Mẫn chẳng là bao; bởi vì, sĩ quan Quân Lực VNCH là những người có trình độ văn hóa, những sĩ quan trẻ còn có trình độ đại học, chứ không có vị nào phải học văn hóa bổ túc như sĩ quan csVN. Khi con người có văn hóa, người ta suy nghĩ khác và người ta dễ gây dựng tương lai, sự nghiệp. Còn những người thiếu văn hóa như sĩ quan csVN – thường xuất thân từ các em bé chăn trâu, chăn bò – thì chỉ biết bám vào chiến tranh và đảng để gây dựng sự nghiệp, để giấu đi bản tính thiếu tự tin. Nếu vị nào chưa biết thực chất của sĩ quan quân đội nhân dân miền Bắc, xin hãy đọc trang 21: “...Nhưng trung tá Nam Tích, tư lệnh phi trường Lộc Ninh, gã nông phu phụ bạc ruộng đồng để hân hoan cùng quân hàm tương đương...”
Trong thời chiến, Phan Nhật Nam viết về thân phận người tù và sự trao đổi tù binh. Sau cuộc chiến, Phan Nhật Nam trở thành tù nhân của một chế độ bạo tàn, vô nhân mà Phan Nhật Nam đã vạch trần trong nhiều tác phẩm.

Tác phẩm viết về trại tù và chiến tranh không hiếm, nhưng thường rất khô khan. Trái lại Phan Nhật Nam dùng chữ rất “bạo”, như “cụm từ” “bác nông phụ bạc ruộng đồng”. Và Phan Nhật Nam cũng dùng nhiều tĩnh từ và trạng từ cho nên câu văn dễ làm cho tình cảm của người đọc bị giao động từng hồi!
Nếu quý vị nghĩ rằng tôi nói quá, thì đây, tôi xin trích một đoạn ngắn nơi trang 395: “...Những buổi chiều từ Lộc Ninh trở về, tôi bay qua đồi Gió, đồi 69, những ngọn đồi ở Đông Nam An Lộc. Cũng những buổi chiều tháng Năm và tháng Sáu như thế này của hai năm trước, 1972, nơi đây, những người bạn ở tiểu đoàn 6, tiểu đoàn 3 Pháo Binh, lữ đoàn I Nhảy Dù đào vội chiếc hố, khoét sâu rảnh giao thông hào dưới cơn mưa đại pháo của Bắc quân... Cũng những buổi chiều muộn khi ngày sắp hết, ánh mặt trời hồng đỏ đã bị mờ dần khi sương lam bốc lên từ dãy cao su ngút ngàn xanh ngắt. Nơi đây, trên dãy cao độ chập chùng trống trãi này những Phạm Tường Huấn, Phạm Kim Bằng, Lộc "lì", Vinh "con" của tiểu đoàn 6 Nhảy Dù bậm môi đến bậc máu, nhô chiếc nón sắt lên khỏi giao thông hào chờ đợi bóng đen của những T54 đang lố nhố, rì rầm dưới chân đồi sắp sửa tấn công... Hôm nay trên chiến địa điêu tàn đó chỉ còn vương vải vài chiếc nón sắt, túi đeo lưng và những mảnh xương trắng xám rơi rớt trên lớp đất đỏ màu máu. Dãy đồi nằm lặng dưới bóng chiều trông oan khiên như nấm mồ vĩ đại...”
Từ năm 1975 trở về trước, những thê lương, tiêu điều chỉ thấy được ở ngoài Bắc và trên những chiến địa đã tàn, thuộc phần đất miền Nam. Nhưng sau 30-04-1975, sự tiêu điều hoang dại ấy và khoai sắn cũng theo Bắc quân vào miền Nam để “giải phóng” miền Nam khỏi sự trù phú sẵn có!
Ngày nào csVN dùng vũ khí của Nga và Trung cộng cùng chiêu bài “đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào” để thiêu rụi hằng triệu thanh niên hai miền Nam Bắc Việt Nam. Bây giờ, để củng cố đảng và chế độ, nhà cầm quyền csVN dang tay, mở rộng cửa mời gọi ngoại nhân, bất kể chủng tộc.
Những ai đã về Việt Nam đều nhận ra điều chua xót là những phát triển vội vàng của ngoại nhân, không những không che bớt được sự thụt lùi thảm hại của đời sống dân chúng mà còn làm cho cơ thể điêu tàn của Mẹ Việt Nam trông diêm dúa, trơ trẽn, chẳng khác gì khuôn mặt bự phấn của những cô gái bán bars dạo nào!
Tội đồ này csVN sẽ phải trả lời trước những trang Việt sử còn hoen màu máu và chưa khô dòng lệ!

ĐIỆP MỸ LINH
https://www.diepmylinh.com/
 


 
Thông cáo Báo chí của NXB Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ về việc xuất bản cuốn Tù Binh và Hòa Bình-Peace & Prisoners of War: Hồi ức về Chiến Tranh Việt Nam của một người Miền Nam Việt Nam
Tác giả: Phan Nhật Nam
Với lời giới thiệu của Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ, Ông James Webb:

“Các cuộc thảo luận tại Hoa Kỳ về Chiến tranh Việt Nam có xu hướng làm mờ nhạt giai đoạn từ năm 1972 đến cuộc tổng tấn công cuối của Miền Bắc vào năm 1975. Nhưng trên chiến trường, đó là thời điểm tàn bạo đối với đồng minh Nam Việt Nam của Hoa Kỳ trong lúc một cuộc đàm phán ngoại giao gay go được tiến hành trước thực tế ngày càng rõ là người Mỹ đã bỏ rơi họ.

Trong Tù Binh và Hòa Bình, được viết ngay khi các sự kiện đang xẩy ra, Nhà Văn Phan Nhật Nam qua một lăng kính đặc thù giúp người đọc thấy được cuộc chiến khắc nghiệt sau khi quân đội Mỹ rút lui và nỗi tuyệt vọng của Miền Nam trước nỗ lực ngăn chặn chiến thắng cuối cùng của cộng sản. Ít người cầm bút có thể viết nên những trang sử tương tự. Nhà văn Phan Nhật Nam đã chứng kiến cuộc chiến trong nhiều năm từ cái nhìn của một người lính cầm súng trong binh chủng Nhảy Dù và  phóng viên chiến trường được nể trọng của miền Nam Việt Nam, và 14 năm sau cuộc chiến là một tù nhân trong các trại tù cải tạo khét tiếng của Hà Nội, trong đó có 8 năm ông bị biệt giam. Sau cuộc chiến, mai danh ẩn tích là số phận và chọn lựa của Phan Nhật Nam cả ở Việt Nam và Hoa Kỳ. Nhưng giờ đây, một trong những tác phẩm quan trọng của ông được ấn hành và do Thượng nghị sĩ James Webb, một sĩ quan Thủy quân lục chiến được vinh danh nhất trong chiến tranh Việt Nam, giới thiệu trang trọng. Ông James Webb mô tả tác phẩm sống động này là “một cái nhìn nguyên bản bị đóng băng trong thời gian, không phô diễn thái quá hay kết hợp những hiểu biết được hồi tưởng lầm lẫn”. Quan sát của Nhà văn Phan Nhật Nam làm rõ ý nghĩa cái kết thúc của Miền Nam được dự báo trước với những sự kiện bi thảm, trên chiến trường cũng như nỗi thất vọng khi đàm phán với một đối thủ độc ác trong lúc bị đồng minh hàng đầu bỏ rơi.
Độc giả sẽ thấy cuốn sách vừa mang lại những điều mới lạ cũng như quan ngại, những quan sát của người viết cho đến nay vẫn bị lãng quên trong hầu hết các trang sử về Chiến tranh Việt Nam.

Phan Nhật Nam là một quân nhân, một nhà văn tên tuổi và một nhà bình luận chính trị. Tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, ngôi trường tại Miền Nam có thể so sánh với West Point. Trong cuộc chiến, Phan Nhật Nam là người lính trận Mũ Đỏ hơn 8 năm, một sư đoàn dù tinh nhuệ của miền Nam Việt Nam và sau đó trở thành phóng viên chiến trường tăm tiếng của Miền Nam. Sau ngày cộng sản tiếp quản Miền Nam 1975, ông bị giam trong “trại cải tạo” khét tiếng của Hà Nội trong 14 năm, với 8 năm biệt giam. Ông di cư sang Hoa Kỳ năm 1993 theo Chương trình Ra đi Trật tự (Orderly Departure Program), tuy vậy Ông không ngừng viết và nói về cuộc chiến cũng như hậu quả của nó. Nhà văn Phan Nhật Nam là một trong những tiếng nói có tầm ảnh hưởng lớn từ cộng đồng người Việt hải ngoại".

Nguyên Thượng Nghị Sĩ James Webb đã từng tham chiến tại chiến trường VN trong binh chủng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ. Ông được nhận nhiều huy chương cao quý của Hải quân Hoa Kỳ như Navy Cross, Silver Star, 2 Bronze Stars, và 2 Purple Hearts. Ông là tác giả của 10 tác phẩm, trong đó có tiểu thuyết kinh điển Fields of Fire về cuộc chiến Việt Nam. Ông cũng là nhà báo đi và viết nhiều, từng nhận giải Emmy Quốc gia cho chương trình truyền hình năm 1983 về Thủy quân Lục chiến ở Beirut, Lebanon, và là phóng viên chuyên nghiệp tại Afghanistan năm 2004. Trong chính quyền Hoa Kỳ, ông từng là cố vấn nhiều ủy ban tại Hạ viện, và nắm nhiều chức vụ quan trọng như Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Hải quân trong Chính phủ Reagan, và Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ thuộc Tiểu Bang Virginia.

(Bản dịch tiếng Việt trích từ thông cáo báo chí của NXB Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ)

NXB HỌC VIỆN HẢI QUÂN HOA KỲ
Ấn Hành: 15 Tháng 9, 2020
ISBN: 9781682476147
Giá Sách Bìa Cứng: $24.95
240 Pages | 6 x 9 in
Đặt mua tại: https://www.usni.org/press/books/peace-and-prisoners-war

Tin tức về việc phát hành, xin liên lạc với:
1) Jacqline Barnes, (410) 295-1028, This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.  hay
2) Phan Quang Trọng, (210) 724-7130, This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Nguồn:https://vietbao.com/p112a304960/thong-cao-bao-chi-cua-nxb-hoc-vien-hai-quan-hoa-ky-ve-viec-xuat-ban-cuon-peace-and-prisoners-of-war-tu-binh-hoa-binh-
 



Phan Nhật Nam - Hè vẫn còn đỏ lửa

Đỗ Trường
   
Nếu buộc phải chọn hai gương mặt tiểu biểu nhất cho thơ văn chiến tranh của nền Văn học miền Nam, thì có lẽ, tôi nghĩ ngay đến nhà thơ Tô Thùy Yên và nhà văn Phan Nhật Nam. Tuy khác nhau về hoàn cảnh, xuất thân, song hai bác này có những nét khá tương đồng, kể từ khi mặc áo lính, cho đến những năm tháng tù đày (dài lê thê) sau chiến tranh.

Nhìn lại văn học sử Việt Nam có ba người lính cầm bút tài năng: Cao Xuân Huy, Nguyễn Bắc Sơn, và Phan Nhật Nam đều có người cha ở bên kia của chiến tuyến. Tuy nhiên, cũng như Cao Xuân Huy, nhà văn Phan Nhật Nam đã phân định trách nhiệm rạch ròi của người lính, không hề có sự mâu thuẫn nội tâm, do dự trên đầu súng và cây viết như Nguyễn Bắc Sơn. Có thể nói, nếu không có cuộc chiến này, thì chưa chắc chúng ta đã có một Phan Nhật Nam nhà văn của ngày hôm nay.
Thật vậy, chính chiến trường đạn bom, khói lửa, chết chóc và tù đày đã đưa ông đến với những trang văn. Và chỉ có đối diện với những trang giấy, Phan Nhật Nam mới giải tỏa được tâm lý cũng như cứu rỗi linh hồn người lính trận. Món nợ với đồng đội với đất nước, cùng cái trớ trêu của cuộc chiến này, ngay từ những ngày đầu cầm bút cho đến nay luôn ám ảnh và xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của Phan Nhật Nam. Do vậy, nếu đọc một cách có hệ thống, ta có thể nhận thấy những đặc điểm nổi bật trong văn thơ, cũng như con người Phan Nhật Nam: Chiến tranh đưa đến tan vỡ tâm hồn, và lẽ sống của người lính. Sự tàn khốc của cuộc chiến ấy dưới ngòi bút sắc sảo của Phan Nhật Nam hiện lên một cách trung thực, sinh động. Và không chỉ trên chiến trường, mà trong tăm tối ngục tù cũng vậy, ta luôn thấy sự giải thoát. Thật vậy, lời dự báo, hay sự phản kháng là con đường giải thoát của ông đôi khi có tính tiêu cực, nhưng nó bật lên cái chí khí, tính nhân đạo cao cả. Chính bởi những đặc điểm này, đã làm nên tên tuổi nhà văn thật vạm vỡ Phan Nhật Nam.
Phan Nhật Nam sinh năm 1943, tại Thừa Thiên – Huế. Sau khi đậu tú tài, ông vào lính và tốt nghiệp Trường võ bị Đà Lạt năm 1963. Với mười bốn năm khoác áo lính, và 14 năm tù cải tạo sau 1975. Hiện ông sống và viết văn tại Cali- Hoa kỳ.

Tuy gian nan với khói lửa binh đao như vậy, nhưng có thể nói, Phan Nhật Nam viết đều, và khỏe, tập truyện nào của ông cũng hừng hực mang không khí, hơi thở của thời cuộc. Dấu Binh Lửa, Dọc Đường Số 1, Ải Trần Gian, Dựa Lưng Nỗi Chết, Mùa Hè Đỏ Lửa, Tù Binh và Hoà Bình được viết trước 1975 là những tác phẩm toàn bích, được nhiều người đọc, và yêu mến nhất. Với tôi, ở thể ký sự chiến trường này, không chỉ ở thời điểm đó, mà cả đến ngày nay, có lẽ chưa có tác giả, tác phẩm nào (kể cả hai phía) vượt qua được Phan Nhật Nam. Sau 1975 dù trong hoàn cảnh tù đày, hay khi đã định cư ở nước ngoài, bút lực của ông còn dồi dào và mãnh liệt lắm. Vẫn dòng chảy của mạch bút ký hàng loạt các tác phẩm mới được ra đời có tính chiêm nghiệm sâu sắc: Chuyện Cần Được Kể Lại, Đường Trường Xa Xăm, Đêm Tận Thất Thanh, Những Cột Trụ Chống Giữ Quê Hương,  Mùa Đông Giữ Lửa, Chuyện Dọc Đường, Phận Người Vận Nước…
Thế nhưng, có một điều làm cho người quan tâm, nghiên cứu đến văn học nước nhà luôn phải trăn trở. Bởi, thời gian này, những tác phẩm trước đây của Phan Nhật Nam đã bị khai tử, và những tác phẩm mới này của ông cũng bị cấm (tiệt) ở trong nước. Người đọc ở nước ngoài rất ít, dẫn đến nhiều hạn chế và thiệt thòi cho độc giả, cũng như cho nền Văn học Việt Nam. Tuy vậy, nếu phải đưa ra một tác phẩm tiêu biểu nhất của Phan Nhật Nam, thì với tôi chắc chắn là bút ký: Dấu binh lửa. Một tác phẩm đầu tay, được in ấn và phát hành năm 1969. Có thể nói, ngoài tính chân thực, giá trị nghệ thuật, và nhân đạo, Dấu binh lửa (còn) như một liều thuốc làm thức tỉnh người đọc đang gà gật trước cuộc chiến tang thương nhất của dân tộc.
Nói bút ký, hồi ký là thể loại văn học mang tính chân thực. Song nếu không có sự sáng tạo mang tính nghệ thuật cao, với sự quan sát tỉ mỉ, cùng tài năng miêu tả cảnh vật, tâm lý nhân vật, sự kiện được thông qua lăng kính, tư tưởng của tác giả, thì tác phẩm đó sẽ khô và rời như cơm nguội vậy. Điều này đã được minh chứng qua những tác phẩm tuyên truyền nhạt phèo: Bất Khuất về Nguyễn Đức Thuận của Trần Đĩnh trước đây, và Hồi ký của Võ Nguyên giáp do Hữu Mai chấp bút gần đây. Tuy nhiên, đọc tùy bút, hồi ký của Phan Nhật Nam, ta thấy khác hoàn toàn. Bởi, người đọc không chỉ thấy tài năng, sự sáng tạo, mà dường như thể loại văn học này đã được ông nâng lên một nấc cao mới về cả giá trị nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.

*Chiến tranh-sự đổ vỡ tâm hồn, và lẽ sống
Cùng lớn lên vào giai đoạn (đầu) khốc liệt của cuộc chiến, không như nhà văn Trần Hoài Thư cầm súng mặc áo lính là nghĩa vụ bắt buộc, với Phan Nhật Nam đó là sự tự nguyện, trách nhiệm của tuổi trẻ. Sự vô tư trong sáng đã mở cho người lính Phan Nhật Nam những ước mơ với chân lý, hiện thực. Tôi không dám nghĩ đây là lý tưởng, song chắc chắn đó là tâm lý chung, không chỉ riêng của Phan Nhật Nam ở cái buổi đầu đời ấy: “  Tôi đi lính năm mười tám tuổi … tôi tự động hăng hái, hãnh diện để trở thành một sinh viên sĩ quan với ý nghĩ đã chọn đúng cho mình hướng đi, một chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Tôi có những rung động thật thành thực khi đi trong rừng thông, hương nhựa thông toả đặc cả một vùng đồi, sung sướng vì thấy đã đưa tuổi trẻ vào trong một thế giới có đủ mơ mộng và cứng rắn, một thế giới pha trộn những ước mơ lãng mạn hào hùng“ (Dấu binh lửa). Tuy nhiên, những ước mơ lãng mạng và hào hùng ấy của người sĩ quan trẻ Phan Nhật Nam đã bị dập tắt ngay từ những trận chiến đầu. Chiến tranh không những giết chết thể xác, mà còn giết chết nhân phẩm, lòng tin của con người. Với thi pháp tự sự, nỗi thất vọng ấy đã được Phan Nhật Nam trải lên trang sách. Đọc lên ai cũng phải chạnh lòng, chua xót. Truyện Người chết dưới chân Chúa (Dấu binh lửa) có những đoạn văn miêu tả cảm động, diễn biến tâm lý sâu sắc, và thấm đẫm tình người như vậy của ông. Và cái tính chân thực, hồn nhiên của người lính, khi đọc Dấu binh lửa cứ làm cho tôi vẩn vơ suy nghĩ đến tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và tác phẩm Vô đề của Dương Thu Hương. Có lẽ, khi viết những tác phẩm này, Bảo Ninh cũng như Dương Thu Hương chưa được đọc Dấu binh lửa. Nếu đã đọc, tôi nghĩ hành động của những người lính thám kích đối với các nữ bộ đội có lẽ, sẽ khác đi nhiều lắm trên những trang văn của họ. Dù là tiểu thuyết, một thể loại được phép hư cấu. Và đoạn trích dưới đây gợi lên nỗi buồn thất vọng (ban đầu) của nhà văn, nhưng phần nào nó cũng làm sáng tỏ thêm nhân cách, và sự cảm thông của người lính:
“… Chị không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này. Tôi đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này. Tôi muốn đưa tay lên gài những chiếc nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị, nhưng chân tay cứng ngắc, hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp. Cảnh sống nào đã đưa chị vào cơn sợ hãi mê muội để dẫn dắt những ngón tay cởi tung hàng nút áo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út, trong khi nước mắt chan hòa trên khuôn mặt đôn hậu tràn kinh hãi.” (Dấu Binh Lửa)

Không chỉ giật mình, trước cái chết phơi thây giữa đồng của những du kích quân tuổi mới mười bốn, mười lăm, mà người lính trẻ Phan Nhật Nam còn đau xót, thẫn thờ và thất vọng trước cái chết quá bi thảm cô gái trẻ vô tội. Những cái chết này như ngọn roi quất vào hồn nhà văn, người lính vậy. Đi sâu vào đọc ta có thể thấy, Phan Nhật Nam là một trong những nhà văn có tài miêu tả, mượn cảnh vật thiên nhiên để bộc lộ tư tưởng, giãi bày cảm xúc của mình. Ta hãy đọc lại đoạn trích dưới đây để thấy rõ tâm trạng của nhà văn trước cái chết bi thảm của đồng loại, cũng như tài năng sử dụng hình ảnh so sánh ẩn dụ của Phan Nhật Nam:
“Khi tôi bước ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà ở của những người chết, một chiếc áo tím chắc hẳn của cô gái còn phơi phới bay trong gió… Nhìn ra xa, xác cô gái nằm thẳng trên sàn gạch, nắng thật sáng rọi lên rực rỡ. Người tôi ai cắm một lưỡi dao oan nghiệt vào tim, thật buồn. Tôi loay hoay đốt một điếu thuốc. Cái chết qủa bi thảm, nhưng hình ảnh của cô gái nằm chết khi chiếc áo còn bay trong gió vang vang nơi trí não tôi như một tiếng kêu thê thảm không dứt âm“ (Dấu binh lửa)

Bom đạn, khói lửa chiến trường chưa phải là điều đáng sợ, và nó không thể giết chết niềm tin, và lẽ sống của người lính trận. Nhưng chính cái khối ung nhọt ở nơi hậu phương kia mới giết chết linh hồn, và khát vọng của họ. Thật ra, vào thời điểm đó, không phải riêng Phan Nhật Nam đã nhận ra điều này, mà trên những trang văn của mình, Trần Hoài Thư cũng chọc thẳng vào cái khối ung nhọt này. Khi ông đã nhận ra, sự hy sinh cả một thế hệ để phục vụ cho những kẻ lãnh đạo không lương thiện, thiếu tài năng. Và hơn thế nữa, gần đây nhất bút ký Sau Cơn Binh Lửa của Trung tá, nhà văn Song Vũ cũng chỉ ra, những con sâu ở giới lãnh đạo thượng tầng, hay những ông vua tôn giáo này, góp phần không nhỏ dẫn đến sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Thật vậy, đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm sụp đổ tâm hồn, phá vỡ niềm tin dẫn đến sự chán chường cho người lính Phan Nhật Nam:
“Chúng tôi rời Sài Gòn trong thở dài nhẹ nhõm, một tháng ở Thủ Đô đủ để tạo thành sụp đổ tan hoang trong lòng, đủ thấy rõ sự phản bội của hậu phương, một hậu phương lừa đảo trên máu và nước mắt của người lính. Một tháng đủ để chúng tôi hiểu ti tiện hèn mọn của loại lãnh tụ ngã tắt, những anh hùng đường phố, những ông vua biểu tình theo ngẫu hứng, vua tôn giáo đầy thù hận và dục vọng… Một tháng “vỡ mặt” lính non cũng như lính già. Chúng tôi bây giờ biết rõ: Máu và đời sống của mình đã đổ ra cho một xã hội lừa lọc.“ (Dấu binh lửa)
Tôi không dám nói, sự đổ vỡ tâm hồn, lẽ sống của nhà văn Phan Nhật Nam là tâm trạng chung của những người lính trẻ lúc đó. Tuy nhiên, chiến tranh đã biến sự trong sáng, nhiệt huyết của một bộ phận giới trẻ trở nên hoài nghi và chán nản. Dù miền Nam khá cởi mở về suy nghĩ, và tư tưởng, nhưng trong lúc nước sôi lửa bỏng đó, viết thẳng tưng ra những điều này, quả thực phải nói đến dũng khí của nhà văn Phan Nhật Nam vậy.

*Sự tàn khốc của chiến tranh, với nỗi ám ảnh của con người
Nếu ta đã đọc truyện ngắn, bút ký chiến trường của Trần Hoài Thư, hay Số Phận Con Người của nhà văn Nga Mikhail Sholokhov, thì có lẽ giảm đi được nỗi ám ảnh, khi đọc bút ký, văn xuôi của Phan Nhật Nam. Bởi, sự chết chóc về thể xác, và linh hồn ấy qua bút pháp hiện thực, với những hình ảnh so sánh sinh động, sắc như lưỡi dao cứa vào lòng người đọc vậy. Phải nói, Phan Nhật Nam có cái nhìn, quan sát rất sâu sắc và tỉ mỉ, khi miêu tả, hay trần thuật. Và Những Ngày Gãy Vụn là một trong những bút ký như vậy của ông. Đây là những trang văn rùng rợn nhất mà tôi đã được đọc. Đoạn trích dưới đây một lần nữa chứng minh nghệ thuật, tài năng lồng tâm trạng của mình vào cảnh vật, thiên nhiên của Phan Nhật Nam. Và thi pháp, thủ thuật này đã xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của ông:
“Thoạt đầu còn e ngại nhưng đến xác thứ tư thứ năm lớp thịt nhũn của xác chết tiếp xúc với bàn tay hóa thành quen. Đi từ nơi để xác trở vào rừng, tôi không dám nhìn vào hai bàn tay của mình, thịt da người chết đã phết một lớp dầy trên
da tay. Hai giờ chiều, xác chết đã nhặt được hết, tôi chà tay xuống mặt đất như muốn bóc hẳn lớp da. Thèm điếu thuốc lá nhưng không dám đưa bàn tay lên môi …trời miền Nam bắt đầu vào mùa mưa, đất đỏ từ lối đi vào đến nơi chứa xác lầy lội tưởng như có pha máu người. Thân nhân người chết than khóc, lăn lộn trên lớp bùn non, áo sô trắng lấm đất đỏ như dấy máu. Hơi đất, hơi người sống, người chết, mùi hương đèn lẫn lộn ngây ngấy nồng nặc, choáng váng…“

Nếu ta thấy cái tĩnh khi đọc truyện ngắn, bút ký của Phạm Tín Anh Ninh, thì ta sẽ tìm được cái động trong bút ký của Phan Nhật Nam. Thật vậy, với lối hành văn phóng khoáng, dứt khoát nhưng truyền cảm, cùng khẩu ngữ trong sáng đơn giản, đọc lên tưởng chừng như có lửa vậy. Nó không chỉ sáng rực lên trên trang sách Phan Nhật Nam, mà còn cháy trong lòng người đọc. Cho nên, đã cầm sách của ông lên, thì thật khó mà bỏ xuống, khi chưa đọc đến trang cuối cùng. Và đến với Mùa hè đỏ lửa thì chiến tranh, nỗi đau, sự tàn nhẫn đã đến tận cùng, vượt qua sức tưởng tượng của con người. Vẫn với thủ pháp hình ảnh so sánh, Phan Nhật Nam cho ta thấy rõ, chiến trận với những cái chết, xác người ở Quảng trị dài dằng dặc, rùng rợn, tàn nhẫn gấp bội so với lò sát sinh, giết người tập thể của phát xít ở Auschwitz. Thật vậy, đọc mùa hè đỏ lửa, tôi không rõ đây là nỗi kinh hãi hay bản cáo trạng của Phan Nhật Nam:
“Làm được gì bây giờ? Bịt mũi, che mồm, nhưng tất cả vô ích, hơi chết đọng trên da, chui vào mũi, bám trên áo, hơi chết hít vào phổi trôi theo máu. Tôi đang đứng trong lòng của sự chết. Tránh làm sao được, ai có thể ra khỏi khối không khí của nơi sống? Những cảnh chết tập thể của người Do Thái ở các trại tập trung gây nên niềm bàng hoàng xúc động vì người chứng kiến thấy được “xác người,” xác chồng chồng lớp lớp có thứ tự, gọn ghẽ nguyên vẹn…  9 cây số đường chết của Quảng Trị không còn được quyền dùng danh từ “xác chết” nữa, vì đây chết tan nát, chết tung tóe, chết vỡ bùng…“(Mùa hè đỏ lửa)  
Đọc Những Ngày Gãy Vụn được Phan Nhật Nam được viết sau thất bại đau đớn ở Đồng Xoài (1965), buộc tôi phải liên tưởng đến truyện ký Thế Hệ Chiến Tranh của Trần Hoài Thư. Ở cùng thời điểm, với hai mặt trận khác nhau, nhưng những người lính ấy có cùng chung một số phận. Bởi, họ phải thi hành mệnh lệnh của những người lãnh đạo quan liêu, và dốt nát. Cũng như Thế Hệ Chiến Tranh, đọc Những Ngày Gãy Vụn ngoài tính bi hài, ta còn thấy được tính cái tính quân kỷ của người lính giữa sự sống và cái chết, dù trong lòng tràn đầy mâu thuẫn, uất hận. Ta hãy đọc lại đoạn trích với ngôn ngữ, lời thoại mang đậm chất điện ảnh dưới đây để thấy rõ điều đó. Và đây cũng là một trong những đặc điểm tạo nên những câu văn sinh động trong văn xuôi Phan Nhật Nam:
“Riêng chúng tôi ở đầu hàng quân đều nhận thấy rõ rằng: Địch đang dụ chúng tôi vào bẫy. Nhưng nhà binh là tuân lệnh, nguyên lý cứng nhắc đó không đủ để dẹp hết e ngại.
– Báo cáo không thể tiến thêm được nữa, địch quá đông, xin pháo binh. Tôi gọi về đại đội nói như hét.
– Không bắn pháo binh được, khu đồn điền có dân và có nhà thờ.
– Dân con mẹ gì! Tôi la muốn vỡ phổi để phản đối: Không phải dân đâu, toàn là Việt cộng thôi…
– Bộ chỉ huy hành quân quyết định không cho bắn, anh về đó mà kiện… “

Và may mắn người lính ấy còn sống sót trở về, và nỗi ám ảnh, hoảng loạn chìm trong những cơn say. Và rượu là liều thuốc an thần tốt nhất cho người lính trận. Chập chờn ký ức hiện về, cùng những tình tiết hiện thực đan xen, buộc người lính Phan Nhật Nam phải độc thoại nội tâm, tự thú trên trang giấy trước mặt. Sự ám ảnh đó tạo nên những hình ảnh so sánh có tính kịch trường sân khấu, làm cho người đọc phải chờn chờn, rợn rợn.

Với nghệ thuật độc thoại nội tâm mang tính tự thú này, đã được Bảo Ninh làm xương sống dựng nên tiểu thuyết Nỗi Buồn Chiến Tranh của mình. Thật vậy, sự ám ảnh, la hét đập phá của người lính Phan Nhật Nam trong Dấu binh lửa, mấy chục năm sau ta bắt gặp lại hình ảnh đó từ Kiên (Bảo Ninh) trong Nỗi Buồn Chiến Tranh. Có lẽ, cũng như khoa học tự nhiên, bằng cách này hay cách khác có sự kế thừa của văn học ở đây chăng (?):
“Đưa quan tài của Dũng lên máy bay, chào trước mộ của Kỳ và Đỗ lần cuối, sau một tuần lăn lộn với người chết, người tôi tan đi trong một cơn mê nồng nặc đầy hơi chết và lòng tràn giông bão. Những xác chết ám ảnh tôi đến kỳ quái, ngay trong giấc ngủ, sự yên lành cũng không có, tôi la hét, khóc lóc đập phá trong cơn mê. Và nỗi tỉnh thì không còn nữa, rượu uống vào hoài hoài, chưa bao giờ thấy rượu ngon và cần thiết đến thế — Một khỏang đời đã đổi tôi thành kẻ lạ rồi… Một tên hung bạo, trí não căm hờn và thù hận. Tôi chết một phần người trong tôi.“ (Dấu binh lửa)

Có thể nói, cuộc chiến tàn khốc vừa qua sản sinh ra nhiều nhà văn tài năng, ở cả hai phía. Số phận, cây viết của họ gắn liền với những tang thương, và vận mệnh của đất nước. Bỏ qua định kiến tư tưởng, chính trị, ta có thể thấy những người lính phía Bắc viết ký sự chiến trường tài năng như: Chu Cẩm Phong, hay Dương Thị Xuân Qúy…, nhưng rất tiếc, họ đã tử trận khi còn quá trẻ. Những người lính phương Nam: Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư… may mắn còn sống sót. Tù đày và nỗi ám ảnh sẽ đi đến hết cuộc đời họ. Tuy nhiên, các tác phẩm xương máu của họ vẫn còn đó trong lòng người. Âu cũng còn một chút may mắn cho nền Văn học Việt vậy.

*Ngục tù- sự phản kháng, hay giải thoát bế tắc
Cũng như những người lính, nhà văn khác, sau 1975 Phan Nhật Nam buộc phải vào tù cải tạo. Tôi có tìm đọc được một số truyện ngắn của ông về thời gian này. Vẫn bút pháp hiện thực, với khẩu ngữ dân dã góc cạnh, do vậy những trang viết của ông được mọi tầng lớp đón nhận, và đi sâu vào lòng người đọc. Do hoàn cảnh tù đày, với độ lùi của thời gian, Phan Nhật Nam đi sâu vào thi ca có tính chiêm nghiệm: “Bóng tối cóc ngồi gục./ Ừ thì Tâm có Phật!/ Sao trong ta cuồng lưu,/ Chẳng lẽ trời sinh người,/ Ðể chịu đời khốn khổ?/ Không thể dựng Ngôi Lời,/ Trần thế ngập gian dối./ Tôi đây ! Chúa trông đây!/ Tận đáy sâu khổ nhục/ Trần trụi ngỡ ma trơi/ Hỡi nào ra nhân dạng?!“(Vào một buổi nào đó). Hay những câu thơ giãi bày tâm trạng u uất của kẻ trên đường bị đi lưu đày: “Chen chúc lũ tù ngồi lăn lóc… /Ðầu gối đầu/ Xe lắc từng cơn/ Nhướng cao mắt, mở trợn trừng,/ Chung quanh núi đá, mịt mù đồng hoang./ Ðây là đâu? Mênh mang đất dữ,/ Trên quê hương chịu chữ đi đầy…“ (Nhập Lam Sơn). Tuy nhiên, với tôi Chuyện Công Cắn là truyện ngắn hay, và đặc trưng nhất của Phan Nhật Nam viết về những năm tháng tù tội, lưu đày. Đọc nó, ta thấy được tận cùng của sự khốn nạn. Nhân phẩm con người không bằng loài súc vật. Những hình ảnh dưới đây, cho ta thấy thân phận tủi nhục của người tù trốn trại, bị bắt nhốt vào cùm biệt giam sáu tháng:
“Sáu tháng sau, Công được tháo cùm cho về buồng. Nó bò với hai tay, hai gối, nhích tới từng khoảng ngắn, xong nằm bẹp lên đất.. Quản giáo Chuyên đi theo, dùng chân đè lên lưng, đầu, đá vào hai chân lê lết, cong queo của nó nói lời khinh bỉ.. Mầy có thành con dòi cũng không trốn khỏi đây được. Tao có thể bắn chết mầy ngay bây giờ nhưng cho mầy sống để ăn cứt! Thằng Công lết chậm im lặng, mắt ráo hoảnh, không cảm giác, tròng đen khô như hòn than.“

14 năm tù đày, cùm biệt giam trên đất Bắc chưa hẳn bởi can tội mặc áo lính, viết văn, hay Phan Nhật Nam từng là sĩ quan ở Ban liên hợp quân sự bốn bên, và đã ra nghị đàm ở Hà Nội, mà có lẽ còn do cái tính khí khái, thẳng tưng của ông. Có lẽ, ông đã đưa những đặc điểm, tính khí này vào những trang viết của mình. Do vậy,  ta có thể thấy tính phản kháng luôn đậm nét trong truyện ngắn, văn xuôi của Phan Nhật Nam. Có thể nói, tôi đã đọc khá nhiều trang sách viết về cải tạo tù đày, nhưng ít thấy có sự phản kháng trực diện như Chuyện Công Cắn của Phan Nhật Nam. Có thể nói, ông luôn mở ra một lối thoát, và giải quyết bế tắc dù có mang tính tiêu cực. Đoạn trích rùng rợn dưới đây, vẫn trong truyện ngắn: Chuyện Công Cắn, sẽ chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó:
“Gã tù lê ống tre bươm trên sân cỏ, lúc lắc thân người rề rà hướng về phía hầm chứa phân khu kỹ luật.
- Đổ vào đây... Địt mẹ đổ vào đây!
Nhiền hét lớn chỉ vào hố chứa.
- Mầy làm rơi vải tao bắt mầy phải ăn cho hết! Địt mẹ... đồ ăn cứt!
Gã tù đã đến bên hố chứa phân, gã lóng cóng với ống bươm. Phân, nước giải rơi vải tung toé. Đổ xuống hố.
- Địt mẹ thằng chó.
Nhiền xoay xoay chùm chìa khoá buồng giam tiến gần chực đánh. Gã tù với một phản ứng nhanh nhẹn bất ngờ tạt ống bươm vào mặt Nhiền. Tên nầy hét lớn hốt hoảng đưa tay vuốt những mảng phân thối, dòng nước dơ. Gã tù nhảy thoắt đến viên đá chận nắp hố phân. Nó nâng lên, đập mạnh xuống khuôn mặt lầy nhầy chất bẩn. Nhiền ngã quay quắt trên đất.
Thằng Công nhảy lên ngồi trên ngực Nhiền, thọc tay vào ổ mắt. Móc ra! Nó nuốt khối nhầy ươn ướt máu và cứt. Súng trên chòi canh nổ sắc, gọn, chính xác từng phát một. Lưng thằng Công ưỡn lên, nẫy nẫy…“

Nếu nói giá trị cơ bản của văn học bao gồm giá trị hiện thực, và giá trị nhân đạo, thì  tôi cho rằng, những tác phẩm của Phan Nhật Nam không những hội đủ những đặc tính này, mà còn hơn thế nữa. Ngoài giá trị về văn học, những tác phẩm của ông còn ghi lại dấu ấn lịch sử thật rõ ràng. Cả cuộc đời Phan Nhật Nam lặn ngụp trong chiến tranh, kể cả thể xác lẫn tâm hồn. Có thể nói, chưa khi nào ông bước được ra khỏi cuộc chiến này. Thân phận, và linh hồn ông dường như cũng uống trọn nỗi khổ đau, oan trái của dân tộc vậy. Do đó, dù sức cùng lực kiệt Phan Nhật Nam vẫn cần mẫn đi tìm một lời giải, một lối thoát cho cuộc chiến, và con người…
Vâng! Và 45 năm hậu chiến, hè vẫn còn đỏ lửa trong ông là như vậy.

Leipzig ngày 15-7-2020
Đỗ Trường 

 

 


 Đăng ngày 29 tháng 09.2020