30/04 và «Con Ngựa Thành Troie»

Nguyễn thị Cỏ May
Trong mấy ngày cuối tháng 04/2015, nhiều người Việt nam ở tuổi hiểu biết hồi 40 năm trước khó tránh không cảm thấy những xúc động ray rứt trong lòng. Ngày 26/04, gia đình Cỏ May tôi, sau hơn 2 tháng ở Mã-lai, trong đất liền, vùng Mersing (viết theo âm đọc, không biết có đúng tên gọi địa danh này hay không) tới trại tiếp cư ở ngoại ô phía Đông-Bắc Paris, thành phố Épinay sur Seine, thuộc tỉnh 93 Seine Saint-Denis. Qua cuối tuần đó, một thanh niên Pháp làm việc cho Trung tâm Tiếp cư (Trung tâm Tiếp cư thường là thứ «ký túc xá» dành cho những người lao động trẻ - Foyer des jeunes travailleurs - hoặc công nhơn ngoại quốc độc thân tới Pháp làm việc ở tạm với tiền phòng rẻ, do chánh quyền mướn đón nhận ngưòi tỵ nạn tới Pháp trong vòng 1 tháng để chờ đi định cư nơi khác, thường là ở các tỉnh) chở Cỏ May tôi với vài người tỵ nạn nữa ra Paris tham dự biểu tình ngày 30/04/78 do các Hội đoàn người Việt nam ở đây tổ chức.
Lúc bấy giờ, người tham dự biểu tình rất đông, cả ngàn người, vì phần lớn vừa tới Pháp, được nuôi ăn ở, được 200 frc/người, tiền túi cho suốt thời gian tạm ở đây, chưa phải đi làm. Hơn nữa, vì vừa rời khỏi Việt nam, chạy thoát nạn vc, khổ nhục đủ điều, nên lòng thù hận còn ngủn ngụt sôi. Gặp vc ở đây, chắc chắn họ túm ngay bỏ thẳng vào miệng nuốt trộng như trăn, rắn ăn mồi vậy. Nhưng ngày nay, trong những người đó, có không ít người về Việt nam ăn chơi, vui cười hỉ hả, bồ nhí, phi công trẻ,… Và ngày nay, ở Paris, tổ chức biểu tình ngày 30/04 hay ngày Quốc tế Nhơn quyền, thì nhiều lắm được năm ba chục ngưòi tới tham dự.
Ở đời, xưa nay, không có chuyện gì mà không thay đổi bao giờ. Luật vô thường mà!
Nhơn ngày 30/04, Cỏ May tôi muốn nhắc lại một chuyện cũ và những người cũ đã đóng góp khá tích cực cho miền Nam mất vào tay cộng sản.

Về một Thư mời
Cũng trong những ngày cuối tháng tư, Cỏ May tôi tình cờ bắt được «Gìấy Mời kiều bào tham dự NGÀY HƯỚNG VỀ MIỀN NAM nhân dịp kỷ niệm hai năm ký kết Hiệp Định Paris về Việt nam » kẹp trong một quyển sách cũ của một người bạn cho.
NGÀY HƯỚNG VỀ MIỀN NAM tổ chức tại Foyer International d’Accueil, 30 rue Cabanis, 75014 Paris, từ 14 giờ 30 tới 19 giờ 30 ngày 26 tháng 1 năm 1975.
Chương trình gồm 3 điểm :
I - Hội thảo về 2 đề tài :
- Hai năm thi hành Hiệp Định Paris
- Các phong trào nhân dân tranh đấu tại miền Nam Việt nam
II - Triển lãm về đời sống và cuộc đấu tranh đòi hòa bình và cơm áo của nhân dân thành thị miền Nam.
III - Chiếu phim “Chiến tranh Vìệt nam vẫn là chiến tranh của Mỹ” của Công ty Đìện ảnh Anh quốc (Vietnam Still America’s War) và chiếu hình màu “ Post-War War ” Narmic .
Ban Tổ chức gồm 3 bộ phận rất hùng hậu : những người đứng ra hoạt động tổ chức (8 người), đại diện rộng rãi cộng đồng người Việt nam tại Pháp mà cốt cán là người của Hà nội như Đại Đức Thích Thiện Châu, Chủ tịch Hội Phật tử Việt kiều hải ngoại, Huỳnh Trung Đồng, Chủ tịch Liên hiệp Việt kiều. Có Ông Hồ Thông Minh, cựu Thứ trưởng Quốc phòng của chánh phủ Ngô Đình Diệm.
Phái đoàn Tù chính trị thuộc lực lượng thứ ba gồm 3 người.
Nhân sĩ gồm 13 người, có 3 sĩ quan Quân đội VNCH, 1 cựu Bộ trưởng tại Phủ thủ tướng và Phủ Tổng thống Ngô Đình Diệm, 3 cựu Dân biểu VNCH (Ông Cổ văn Hai, Phó Chủ tịch Quốc Hội Ngô Đình Diệm).
Trong danh sách người tổ chức và nhân sĩ, Cỏ May có quen biết khá nhiều vài người hiện nay còn ở Paris nên có hỏi thăm về hội nghị ấy và được biết có gần hai trăm người tham dự .
Nhìn qua, ai cũng sẽ thấy ngay tính cách đại dìện quần chúng của Ngày Hướng Về Miền Nam được quan tâm đặc biệt và sắp xếp rất chu đáo: thành phần xã hội, thế hệ, nghề nghiệp, địa phương, xu hướng chánh trị, …
Trong đây, những người không phải cộng sản có căn cước thì họ là những người “không theo hẳn Hà nội, mà cũng không theo hẳn Sài gòn”. Nhưng họ có xu hướng rõ ràng là chống Chánh phủ Sài gòn, chống Mỹ, đòi hòa bình cho Việt nam. Theo họ, Mỹ và Miền Nam ngưng chiến tranh thì lập tức có hòa bình. Họ không đặt vấn đề chiến tranh từ đâu đưa tới. Không đặt vấn đề Hà nội ngưng xâm nhập và làm chiến tranh giải phóng cho cộng sản quốc tế. Như Lê Duẩn tuyên bố sau 30/04/75 và Trường chinh tuyên bố trước đó: “Chúng ta giải phóng Miền Nam là cho Liên-xô và Trung quốc”. Cũng có những người chống Hà nội, không ủng hộ Sài gòn, chống chiến tranh, đòi hòa bình thật sự cho Việt nam. Nhưng quan điểm này dễ bị phai nhạt.
Xu hướng đòi hòa bình cho Việt nam của họ được cả thế giới, ngay tại Âu châu và Mỹ, nhiệt tinh ủng hộ.
Ở tại Việt nam, từ sau Mậu thân 1968, xuất hiện một phong trào Hòa bình, cũng đòi Miền Nam và Mỹ hãy ngưng chiến tranh để Việt nam có hòa bình.
Những người này, ở Việt nam và hải ngoại, được dư luận gọi là “Thành phần thứ ba” hay “Lực lượng thứ ba”. Sự nghiệp chánh trị của họ là tích cực đóng góp cho sự sụp đổ Miền Nam, thống nhứt đất nước dưới chế độ cộng sản như ngày nay.
Sau 30/04/75, có người thấy ngao ngán, ê chề. Kẻ lên tiếng thật sự chống chế độ cộng sản, người sống trong lặng lẽ. Nhưng những người gốc cộng sản thì hồ hởi. Nhưng không thiếu lắm kẻ, trước kia nổ lực chống Mỹ cứu nước, nay phê phán cộng sản để cho cộng sản thấy họ thật sự là những người có giá trị, chìa tay ra trước chờ cộng sản bắt, mỏi xuội cả tay …
Điều đáng chú ý là cuối tháng 1/75 mà vc Hà nội còn cho tổ chức “Ngày Hướng về Miền Nam”, hội thảo để vận động thi hành Hiệp định Paris là họ chưa chắc có ngày 30/04. Đúng là bổng lộc quá lớn từ trên trời rơi xuống cho những kẻ có phần!

Thành phần thứ ba và hòa giải, hòa hợp dân tộc
Có nhiều định nghĩa không khác nhau xa lắm “Thành Phần Thứ Ba là một từ được dùng để chỉ lực lượng chính trị ở miền Nam Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam, mà không ủng hộ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa hay Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Lực lượng này tranh đấu cho hòa bình và kêu gọi hòa giải, hòa hợp dân tộc”.
Nhà báo Jean-Claude Pomonti của nhựt báo Le Monde, lại gọi đó là: «Lực lượng thứ ba” đã được dùng vào năm 1960, sau khi một nhóm 18 chính khách Caravelle đối lập với chính quyền Ngô Đình Diệm, nhưng cũng chống Cộng, đưa ra một bản tuyên ngôn đòi ông Diệm cải tổ chính quyền (?).
Cũng nhà báo của Le Monde, Jacques Decournoy, lại hiểu “Thành phần thứ ba” xuất hiện vào mùa thu năm 1969 với một nhóm người chống chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và đi theo hướng hòa giải dân tộc mà ông Dương Văn Minh được coi là đại diện .
Lý Chánh Trung, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: "Lực lượng hay Thành phần thứ ba chỉ là một khát vọng hơn là một thực lực thực tế. Tổ chức vỏn vẹn có vài trăm người. Nhóm người đó mở ra mọi phía và đón nhận nhiều ảnh hưởng. Vì thế họ không có một ý thức hệ chính xác nào» .
Sau cùng tên gọi “Thành Phần Thứ Ba” được bắt đầu chánh thức dùng là do đề nghị của chánh phủ miền Bắc tại Hòa đàm Paris về thành lập một chánh phủ liên hiệp gồm ba thành phần, và khi Hiệp Định được ký ở Paris cuối tháng Giêng năm 1973, thì điều 12 của Hiệp Định này có nói đến việc thiết lập một “Hội đồng Quốc gia Hòa giải và Hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau”.
Theo qui định chánh thức của Hiệp định Paris, thì phải “hòa giải” rồi mới “hòa hợp” dân tộc. Nhưng cộng sản Hà nội, sau khi thanh toán sòng phẳng Mặt trận Giải phóng Miền Nam và Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam, thì họ chỉ nói “hòa hợp”, tức về dưới trướng của đảng cộng sản. Không có vấn đề “hòa giải” vì họ là kẻ chiến thắng, đứng về phía lẽ phải, chỉ tha thứ cho kẻ thua cuộc mà thôi. Cũng như thời xưa, để giải quyết tranh chấp, cho hai đấu sĩ đấu nhau. Kẻ thắng cuộc là kẻ có lẽ phải vì được Chúa Trời bênh vực!

Công lao của “Thành phần thứ Ba” hay “Lực lượng thứ Ba”
Để thấy tầm quan trọng của họ đóng góp cho Ngày 30/04/75, xin mời đọc lại lời của Hà nội và của Mặt trận Giải phóng Miền Nam (Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa Miền nam).
- Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho rằng : “Theo tôi, đã đến lúc ta phải nhìn nhận công lao, sự đóng góp to lớn của các tầng lớp người Việt yêu nước từng sống trong lòng chế độ cũ, hiện ở trong nước hay ở bên ngoài. Bản thân tôi cùng với anh em được giao tiếp quản Sài Gòn năm 1975, một Sài Gòn nguyên vẹn sau một cuộc chiến tranh như vậy, tôi nghĩ không thể không nói đến vai trò của các lực lượng chính trị đối lập với Mỹ - Thiệu, có quan hệ với chính phủ Dương Văn Minh lúc bấy giờ.…».
- Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình thẳng thắn thừa nhận: “Nhiều người ngạinói đến lực lượng thứ ba, nhưng theo tôi, lực lượng này đã có những đóng góp nhất định vào thắng lợi của nhân dân ta”. Tại sao Bà Bình nói “ngại nói đến…?”.

Con Ngựa Thành Troie
Sau 10 năm bao vây, không vào được Thành Troie, quân Hi-lạp có sáng kiến làm một con ngựa gổ khổng lồ, dấu trong bụng ngựa một số lính tinh nhuệ, đem tới cho Thành Troie như một món quà lớn. Dân Troie nhận quà, mở tiệc ăn mừng, say xỉn ngã lăng ra đất. Lính Hi-lạp chui ra, chiếm thành, cướp sạch thành Troie, giết hết đàn ông, con trai, bắt hết đàn bà,con gái, trẻ con, làm nô lệ .
Sau ngày 30/04, khi nói tới vai trò của «Mặt trận Giải phóng miền Nam» trong chiến tranh ở Việt nam trước đây, người ta gọi đó là «Con Ngựa Thành Troie» . Những người cộng sản thật sự trong tổ chức này thì sau ngày 30/04/75, họ quay trở về lại với đảng của họ.
Hôm sáng ngày 01/05/75, trên khán đài xem duyệt binh, Ông Trương Như Tảng, Bộ trưởng Tư pháp của Chánh phủ Lâm thời, chờ xem Quân Giải phóng đi qua mà gần mãn buổi lễ, vẫn chưa thấy, sốt ruột, bèn xoay qua hỏi một sĩ quan Hà nội, ông này trả lời rất thật thà «Ủa, quân đội ta đã thống nhứt tối hôm qua rồi. Anh không biết sao?»! (Ông Trương Như Tảng kể tại Paris).
Nhìn lại chiến tranh ở Việt nam, phải chăng những yếu tố «Thìên thời, Địa lợi, Nhơn hòa» hội đủ ở phía tham chiến nào thì phía đó sẽ thắng cuộc, hoàn toàn không không cần phải có chánh nghĩa?
Võ văn Kiệt tỏ ra chia sẻ với bên thua cuộc «Ngày 30/04, có 1 triệu người vui, 1 triệu người buồn».
Một triệu người buồn thì hãy còn đây. Còn 1 triệu người vui kia, nay còn mấy người vui thật tình? Nhìn dân chúng trong nước ngày nay, sau 40 năm được «giải phóng» thì hiểu.

Nguyễn thị Cỏ May

 


Thắng cuộc & Thua bạc

Tưởng Năng Tiến

Người dân Việt Nam không ai thắng ai sau cuộc chiến vừa qua. Tất cả chúng ta đều thua, thua đau, sau một canh bạc bịp bởi những kẻ gian manh. Phải nhận diện rõ được kẻ thù như thế để đánh thẳng vào mặt chúng nó, và đừng... đánh lẫn nhau!
Với ý thức phản tỉnh chúng ta có thể nói cho nhau hôm nay về ý nghĩa đích thực của ngày 30 tháng 4 là đây là một ngày toàn thắng trong tiến trình cướp chính quyền của ĐCSVN và là một ngày đại bại của toàn dân tộc Việt.
Tác phẩm của nhà văn Trần Vũ vừa được khởi đăng trên Tuần báo Trẻ, số ra ngày 12 tháng 3 năm 2015 - phát hành từ Dallas, Texas - với lời dẫn nhập của chính tác giả: Cuối thập niên 70 cùng với những ghe vượt biển mong manh còn xuất hiện những thuyền nhiều tầng được Công an Biên phòng hộ tống ra tận cửa biển, do chính nhà nước đứng ra tổ chức dưới tên gọi Vượt biên Bán Chánh thức. Với chính sách bài Hoa, chính quyền muốn triệt tiêu “đội ngũ Hán gian” nhưng trong thực tế là những gia đình Hoa kiều đã sinh sống nhiều thế hệ trong Chợ Lớn và có cả những thanh niên Việt mua khai sinh Tàu để ra đi. Giá trung bình là 12 lượng vàng cho người lớn và 7 lượng vàng cho trẻ em, cùng hai trăm đồng “cụ Hồ” cho thị thực khai sinh ma. Đóng cho chủ tàu và công an thị xã điểm xuất phát. Chuyến tàu MT-603 khởi đi từ Mỹ Tho đêm 29 rạng 30 tháng 5-1979 chứa 405 thuyền nhân đã đâm vào bãi ngầm Trường Sa bốn ngày sau đó. Ngày 21 tháng 6-1979 khi được Hải quân Phi Luật Tân cứu đưa vào hải đảo Liminangcong, điểm danh còn đúng 285 người. Tôi ở trong số những thiếu niên đi chuyến tàu này, ghi lại dưới dạng tiểu thuyết.
Không ai biết chính xác có bao nhiêu “con thuyền nhiều tầng” đã được công an “hộ tống” ra cửa biển, bao nhiêu người đã vùi thây dưới biển sâu, và bao nhiêu lạng vàng đã nộp cho nhà đương cuộc Hà Nội trong chiến dịch bán bãi thu vàng. Đến nay chỉ có con số về lượng vàng thất thu (vì cán bộ thu nhưng không trình) tại vài địa phương:
Hậu Giang, 4.866 lượng; Minh Hải, 48.195 lượng; Bến Tre, 3.789 lượng; Cửu Long, 27.000 lượng; Nghĩa Bình, 27.000 lượng; Phú Khánh, 10.987 lượng; Thuận Hải, 1.220 lượng; An Giang, 1.445 lượng”. (Huy Đức. , tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).


 
Bán bãi lấy vàng không phải là mẻ thu đầu tiên của bên thắng cuộc. Trước đó đã có nhiều “chiến dịch” tương tự, xin được ghi lại (tóm lược) theo theo thứ tự thời gian:
“Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở miền Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã phải trải qua hai lần bị “đánh”.
“Chiến dịch X-2”
Vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn họp báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có chứng cứ đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường...
Về lý luận, “tư sản mại bản” được chính quyền cách mạng coi là “địch” nên phương thức mà Chiến dịch X-2 tiến hành được xác định rõ là “đánh”...
Tối 10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn tăng lên. Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm “7.000 con gà, thu hoạch 4.000 trứng mỗi ngày”120 ở Thủ Đức...
Sau “Chiến dịch X-2”, Thành ủy nhận định: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập rất cao, chúng đã mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính trị. Lực lượng kinh tế của chúng đã bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của ta”122. Nhằm “giáng tiếp những đòn mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22 và 23-9-75, đồng tiền cũ của chế độ Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới.
 
Đổi tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”...
Năm 1976, tình hình tiếp tục khó khăn. Một đợt “đánh tư sản” lại được tiến hành, lần này tập trung hơn vào giới tư sản người Hoa.
- Những gì mà Cách mạng lấy được của “nhà giàu” trên toàn miền Nam được liệt kê: “Về tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trong đó có 55.370 USD gửi ở ngân hàng]; 61.121 đồng tiền miền Bắc; 1.200 đồng phrăng (tiền Pháp)…; vàng: 7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột; cẩm thạch: 97 hột; nữ trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho tàng ta thu được: 60 nghìn tấn phân; 8.000 tấn hóa chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn nhôm; 2.500 tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2 cao ốc; 96.604 chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24 tấn bơ; 2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000 con và một trại gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000 USD thiết bị tiêu dùng; 19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền cà phê, nho, táo rộng 170 hecta ở Đà Lạt” (Sđd, trang 71 - 80).
- "Tại Sài Gòn, 28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị “đánh” ngay trong bốn ngày đầu với 6.129 hộ “tư sản thương nghiệp”, 13.923 hộ “trung thương”. Những tháng sau đó có thêm 835 “con phe”, 3.300 “tiểu thương ba ngành hàng”, 4.600 “tiểu thương và trung thương chợ trời” bị truy quét tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người trông coi kho vàng của Ngân hàng, trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng thu thêm khoảng hơn năm tấn vàng, chưa kể hạt xoàn và các loại đá quý. Có những gia đình tư sản giấu vàng không kỹ, lực lượng cải tạo tìm được, khui ra, vàng chất đầy trên chiếu.”(Sđd, trang 71 - 90).
Cũng theo ông Huỳnh Bửu Sơn:
“Ngay trong ngày 1-5-1975, Cách mạng đã biết trong kho có số vàng này, nhưng phải khi ông đi học tập về thì mới chính thức bàn giao. Ông Huỳnh Bửu Sơn là một trong hai người nắm giữ chìa khóa kho vàng và trực tiếp giao vàng cho hai người, một người bộ đội tên là Duyệt, một người về sau làm giám đốc ngân hàng Cần Thơ. Kho dự trữ chứa 15,7 tấn vàng, gồm: vàng thoi FRD của Mỹ, vàng thoi Montagu của Nam Phi và vàng thoi Kim Thành, có nguồn gốc là vàng lậu do hải quan bắt tịch thu về đưa cho hãng Kim Thành đúc lại. Ngoài ra còn có các đồng tiền vàng của Mỹ, Double Eagle, mệnh giá 20 USD nhưng được làm từ một lượng vàng trị giá 420 USD; đồng Pesos của Mexico; đồng vàng Napoleon… ” (Sđd, trang 31).
 
Đó là chưa kể đến hàng chục ngàn cơ sở thương mại bị tịch thu hay công hữu hóa, và không biết bao nhiêu hãng xưởng, nhà cửa mà dân miền Nam đã ký giấy “hiến” cho “cách mạng” với hy vọng (mỏng manh) của đi thay người.
Kẻ bên thua cuộc thì trắng tay là chuyện tất nhiên nhưng người bên thắng cuộc – tuyệt đại đa số – cũng chả “chiếm hữu” được gì ráo. Dân quê ở hậu phương không với tay được đến chiến lợi phẩm, đã đành, các chiến sĩ ngay tại trận tiền cũng không “vơ vét” được của cải chi đáng giá – ngoài mấy cái khung xe đạp vác vai, hay vài “con búp bế nhựa, biết nhắm mắt khi năm ngửa và có thể khóc oe oe, buộc trên ba lô của… anh bộ đội phục viên may mắn” – vẫn theo lời Huy Đức.
Bỏ cái ba lô, cái khung xe đạp, và con búp bê có thể khóc oe oe ra, những chiến sĩ giải phóng quân hoàn toàn trần trụi: không học vấn, không nghề nghiệp, không không một đồng xu dính túi, và – tất nhiên – không một tấc đất cắm dùi!
“Họ ngơ ngác tìm kế sinh nhai”:
“Tôi đã được chứng kiến cảnh hẫng hụt của nhiều người khi họ tâm sự, cảnh ngơ ngác tìm kế sinh nhai, đã không ít người đòi đảng, chính quyền cơ sở phải chia ruộng đất cho họ, và tất nhiên đảng, chính quyền không thể moi đâu ra ruộng đất để cho họ cày, cực chẳng đã, nhiều người đã trực tiếp đòi ruộng cha ông mà ngày trước họ đã góp vào hợp tác xã, không ít người đã tự ý đi cày ruộng cha ông của mình, thế là hình ảnh người chiến sỹ năm xưa cả nước trân trọng, mến mộ:
‘hoan hô anh giải phóng quân kính chào anh con người đẹp nhất lịch sử hôn anh, chàng trai chân đất sống hiên ngang bất khuất trên đời’
Nay họ đã trở thành đối tượng của đảng, chính quyền địa phương, họ được quy là công thần, gây rối, chống lại đường lối của đảng, nhà nước, kết cục có người bị đuổi ra khỏi đảng, có người bị bị bắt lên xã, lên huyện tạm giam để xử lý vì đã ngang nhiên lấn chiếm đất đai của nhà nước đã giao cho người khác.”
Đó là hoàn cảnh “hụt hẫng” của những binh sĩ hay sĩ quan phục viên lành lặn, và may mắn. Nói chi đến đám thương binh hay những gia đình liệt sĩ. Năm 1983 ông Nguyễn Vĩnh Rượu nhận được 90 đồng tiền chính sách, hỗ trợ vì gia đình có ba thân nhân là liệt sĩ. Số tiền này, vào thời điểm đó, mua được “gần” ba bao 555 hay Craven A. Tính cho gọn theo “chính sách” thì mỗi liệt sĩ tương đương với một bao thuốc lá.
Ông Rượu gửi hết 90 đồng vào qũy tiết kiệm, loại không kỳ hạn và có lời. Ba mươi hai năm sau, vào ngày 31 tháng 3 năm 2015, gia đình ông Rượu mang sổ tiết kiệm đến Ngân hàng VietinBank và nhận lại được hơn 20.000 đồng. Tính luôn “cả lãi lẫn gốc không đủ một cuốc xe ôm,” như nguyên văn lời của ký giả Tấn Tài trong bài báo trên báo Một Thế Giới, số ra ngày 2 tháng 4 năm 2015.
Bởi vậy không có gì ngạc nhiên là bốn mươi năm sau, sau khi cuộc chiến đã tàn, người ta vẫn còn tiếng kêu cứu thống thiết của những gia đình thương binh hay liệt sĩ ở khắp mọi nơi. Hãy xem hoàn cảnh của bà: 74 tuổi, trú tại thôn Cái Tắt, xã An Đồng (An Dương, thành phố Hải Phòng)… Thời kỳ chiến tranh, bà là thanh niên xung phong. Bà gặp và kết hôn cùng ông Nguyễn Văn Viền là bộ đội. Ông Viền hy sinh năm 1968, khi con gái vừa mới sinh. Bản thân bà là người ngoại tỉnh, gia cảnh lại neo đơn không có anh em ruột thịt, bà phải gửi con nhỏ về quê Nam Định cho mẹ già chăm sóc. Bà lăn lộn kiếm tiền gửi về cho mẹ nuôi con gái...
Trước hoàn cảnh khó khăn trên của gia đình thân nhân liệt sĩ, rất mong các cá nhân, nhà hảo tâm quan tâm giúp đỡ gia đình bà Thủy. Mọi sự giúp đỡ xin gửi về bà Hà Thị Thủy hoặc bà Vũ Thị Hải – Trưởng văn phòng đại diện Báo Nông Thôn Ngày Nay tại Hải Phòng – số 31 Điện Biên Phủ, quận Hồng Bàng, ĐT: 0903212789; hoặc Báo Nông Thôn Ngày Nay – 13 Thụy Khuê, Hà Nội, tài khoản 1506311002117, chi nhánh Ngân hàng NNPTNT Tây Hồ, Hà Nội.”
Chúng ta có bổn phận phải giúp đỡ lẫn nhau khi tha nhân lâm vào cảnh khó khăn. Tôi hy vọng sẽ không ai trù trừ, do dự hay quay lưng với gia đình bà Hà Thị Thủy chỉ vì họ là những người thuộc... bên thắng cuộc.
Người dân Việt Nam không ai thắng ai sau cuộc chiến vừa qua. Tất cả chúng ta đều thua, thua đau, sau một canh bạc bịp bởi những kẻ gian manh. Phải nhận diện rõ được kẻ thù như thế để đánh thẳng vào mặt chúng nó, và đừng... đánh lẫn nhau!
 
 
 
 
 
Đăng ngày 06 tháng 05.2015