Từ thảm sát Paris ngày 13/11/2015 do khủng bố IS thực hiện, nhớ lại những kẻ "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản" đã tiếp tay với cộng sản miền Bắc để khủng bố giết hại dân lành miền Nam VNCH.


Trót vì tay đã nhúng chàm  hay

Thử nhìn lại cái gọi là thành phần thứ ba


Huỳnh Vạng Lộc

Hiện nay thì ai cũng rõ cái gọi là thành phần thứ ba chỉ là cái bung xung, Việt cộng đặt ra để nhuộm đỏ dần miền Nam, ban đầu họ không nghĩ là có thể chiếm miền Nam dễ dàng như đã diễn ra vào ngày 30-4-1975, với chủ trương tầm ăn dâu, cái gọi là Mặt trận giải phóng miền Nam, kế là Chánh phủ lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam được dựng lên, nồng cốt là các đảng viên cộng sản miền Bắc gởi vào và số nằm vùng (Võ Chí Công, Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng, Trần Bạch Đằng, Trần Bửu Kiếm, Nguyễn Thị Định, Huỳnh Tấn Phát, Võ Văn Kiệt, ..), để đánh lừa công luận quốc tế, họ lôi kéo thành phần trí thức thành thị bất mãn ở Miền Nam vào các tổ chức trên, hứa hẹn là sẽ có vai vế trong thể chế chuyển tiếp tương lai.
Theo Dương Văn Ba (DVB): «Đến ngày 26-4-1975 tôi và chú Quang gặp nhau ở một quán ăn lớn trên đường Tổng Đốc Phương… Ông hỏi: “Đô trưởng Sài Gòn là ai?” Tôi trả lời: “rất có thể là Hồ Ngọc Nhuận”, “Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia là ai?” “- có lẽ là Triệu Quốc Mạnh”, “Còn cháu sẽ làm gì?” Tôi nói: “Thứ trưởng Bộ Thông tin hoặc Thứ trưởng Bộ Giáo dục.» (1).  Theo cộng sản hoạch định, ba thành phần gồm quốc gia (Việt Nam cộng hòa), Việt cộng (Chánh phủ lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam) và thành phần thứ ba.

Gọi là thành phần thứ ba nhưng kỳ thật là tay sai, loại xanh vỏ đỏ lòng, đây không phải là điều gán ghép để bôi nhọ (ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản) mà thực tế đã minh chứng, vả lại, chính một số họ cũng đã công khai thừa nhận trong các hồi ký (Hồi ký không tên của Lý Quý Chung, Những ngả rẽ của Dương Văn Ba, Đời của Hồ Ngọc Nhuận), nhờ đó chúng ta hiểu thêm nhiều nhân vật khác như Ngô Công Đức, Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Trương Bá cần, ...
Nhận diện lại không phải để bôi bác (việc lem luốc đã rành rành quá rồi) mà để rút ra một bài học hầu giúp soi sáng cho những ai còn mon men «đạp cứt» của họ.
Sự hiện diện của một số trí thức không cộng sản ở miền Nam (Trịnh Đình Thảo, Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa, Lữ Phương, Đôn Hậu, …) trong cái gọi là Mặt trận giải phóng miền Nam, kế là Chánh phủ lâm thời miền Nam Việt Nam giúp cho cộng sản tuyên truyền là nhân dân miền Nam nổi dậy chống đế quốc Mỹ và tay sai, ban đầu còn úp úp mở mở, nhưng dần dà thì công khai, nhà cầm quyền miền Nam thì biết rất rõ ý đồ này, chính sách tố cộng từ giữa thập niên 1950 là nhằm hóa giải âm mưu ấy, vấn đề đặt ra là một số trí thức miền Nam bị cộng sản lợi dụng hay tự nguyện theo cộng sản?

Thực tế cũng khó phân định rạch ròi :
- nói bị cộng sản lợi dụng thì sao họ vẫn tỏ ra hài lòng chế độ mới, được hưởng một số ơn mưa móc?
- bằng nói theo cộng sản thì sao họ không được trọng dụng, bị thất sủng, thậm chí bị bạc đãi đến nỗi phải tìm đường bôn tẩu như Trương Như Tản -Bộ trưởng tư pháp trong Chính phủ lâm thời miền Nam VN vượt biên bằng tàu từ Long Xuyên năm 1977 (2), Châu Tâm Luân: «Nhưng phần lớn các trí thức đã ra đi lặng lẽ. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi đi tất cả sáu lần. Lần bị giữ lâu nhất là ở Rạch Giá, cả tháng trời. Nhưng tôi không khai mình là ai. Như bốn lần trước, ở nhà cứ lo một cây vàng thì được thả”… . Theo ông Huỳnh Kim Báu, khi vượt biên bị bắt, Giáo sư Lê Thước đã tự sát.» (3) hay âm thầm rời bỏ đất nước (Phạm Hoàng Hộ: «Theo ông Võ Văn Kiệt, Thành ủy vẫn để Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hàng năm sang Pháp dạy học. Trong một lần đi Pháp, ông ở lại luôn bên đó rồi viết thư về cho ông Kiệt nói rằng, công việc nghiên cứu nhiều, ông cần phải ở nơi có phương tiện cho ông làm việc, khi nào đất nước thực sự cần, ông sẽ về.» (3), hoặc đăng đàn chỉ trích chế độ như Chân Tín.

Qua sự phản tỉnh muộn màng của Hồ Ngọc Nhuận (4), đương sự đã nhận rõ mặt trái của cộng sản từ lâu, như vậy những bài viết tâng bốc chế độ cộng sản từ trước đến nay của họ đều là giả dối, cái gọi là thành phần thứ ba phần lớn là bị cộng sản lợi dụng, nhiều người đã được móc nối:
«Tôi (Hồ Ngọc Nhuận) chỉ thiếu đi vô khu như anh Nguyễn Ngọc Lan hay anh Châu Tâm Luân mà thôi. Hay chính xác hơn là vô hụt…» (5), «Ngô Công Đức cũng đã đi theo Việt Cộng (theo tới cùng hay theo nửa chừng hoặc bên trong còn bọc lót áo màu gì chưa biết). Riêng Hồ Ngọc Nhuận đã được móc nối tại Paris bởi Đại Sứ Phạm Văn Ba và Đại Sứ Nguyễn Văn Tiến trong năm 1968.»,… «Ông Ngô Tấn Nhơn và bà Bùi Thị Mè là những người đã tiếp sức cho Ngô Công Đức đi theo cách mạng.»…
«Tưởng cũng nên kể lại sự việc vào năm 1968, sau biến cố tết Mậu Thân, lúc đó ông Võ Văn Kiệt còn làm Bí Thư chỉ đạo Khu 9, … ý đồ của ông Kiệt muốn sử dụng tôi (Dương Văn Ba) hoạt động cho Cộng Sản từ năm 1968. …, tôi có hứa sẵn sàng làm những việc gì tôi thấy có lợi cho cách mạng.», …
«Giáo sư Lý Chánh Trung … qua trung gian của gia đình bên vợ (bà Bùi Thị Mè là chị ruột vợ của Thầy Trung) đã được cộng sản móc nối từ lâu. Năm 1965, ông và em vợ ông giáo sư Bùi Thế Xương đã từng lên mật khu Hố Bò họp mặt với Thủ tướng Huỳnh Tấn Phát.» (1)

Một thời gian sau ngày 30/4/1975, một số sớm nhận ra là không thể tiếp tục sống với cộng sản vội tìm đường thoát thân, một số hít được chút «bã mía» thì ở lại:
- khỏi tù cải tạo: «tôi (DVB) được miễn đi học tập cải tạo tập trung như hàng mấy trăm ngàn người khác», khi nhận được thư thông báo: «Lúc đó, cả tôi và vợ tôi đều nói: “Thế là Bác Hồ đã soi rọi đến gia đình mình” vừa nói như thế chúng tôi đều đồng loạt nhìn lên ảnh Bác Hồ đang treo trên tường giữa nhà» (1)
- chờ đợi chia chác quyền hành: «Xin kể lại một chuyện có thật, ngay những ngày đầu sau giải phóng, trong lúc sắp xếp bộ máy nắm quyền tại thành phố Sài Gòn, anh Hồ Ngọc Nhuận từng được đề bạt dự kiến giữ vai trò Phó Chủ Tịch của UBND Cách Mạng Lâm Thời Sài Gòn – Gia Định.» (1)
- cho ra báo lại, … thì tỏ vẻ biết ơn «cách mạng» rối rít như nhóm báo Tin sáng (Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, …), Đối diện (Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, …), Công giáo và dân tộc (Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh).

Từng sống và hoạt động chính trị, báo chí trong hai chế độ, đáng lẽ họ phải sớm nhận ra lẽ thật, vậy mà từ những đại diện dân cử lớn tiếng rộng họng công kích chính quyền biến thành những công dân hạng hai, từ chủ báo chủ bút hung hăng dùng ngòi bút chống Mỹ - Ngụy trở thành loại hàng thần lơ láo, mong chờ phát ban ân huệ, từ những tên dám thách thức một nhà nước pháp quyền kiểu dọc ngang nào biết trên đầu có ai (ra báo lậu, ra tuyên ngôn tuyên cáo chống chế độ) giờ thu mình lại, nhũn như con chi chi, chẳng dám hó hé trước một xã hội đầy dẫy xấu xa.
Sau 40 năm mới thấy sự phản tỉnh muộn màng: « ông Trọng và những người của ông, như ông, vì cả đời thâu tóm tất cả các quyền tự do căn bản của người dân, để tự do muốn làm gì thì làm trên đầu trên cổ người dân, nên cho rằng tuyệt đại đa số người Việt Nam bị đạp xuống làm người dân hạng hai, hạng ba như chúng tôi, … từ khi các ông bê từ đâu đó về cái gọi là “cộng hòa xã hội chủ nghĩa” để gắn lên đầu hai chữ Việt Nam, một chế độ mà hằng chục nước từng bị áp đặt đã thẳng thừng vứt bỏ từ một phần tư thế kỷ qua để nhân dân nước họ được đứng thẳng làm người, ...». (4)

Nỗi u mê kéo dài quá lâu hay vừa ngộ ra những lời tâng bốc rẻ tiền không còn tác dụng? Những điều HNN nói ra chẳng có gì mới lạ, chính quyền Miền Nam đã biết từ lâu (chính sách tố cộng khởi động từ giữa thập niên 1950), trong khi một nhóm gọi là trí thức lại hậu thuẫn cho cộng sản (chống chiến tranh, chống Mỹ -Ngụy) há họ không biết chiến tranh phát xuất từ đâu, chủ trương của cộng sản ra sao (một số chức sắc tôn giáo lại tung hê chủ nghĩa vô thần), cộng sản có gì hơn quốc gia?

Đành rằng chế độ miền Nam còn nhiều khuyết điểm, nhưng giữa hai cái xấu, người trí phải biết chọn cái ít xấu hơn, còn nhắm mắt đạp đổ bất chấp hậu quả thì sao tránh khỏi mang tiếng u mê?

Điều đáng hổ thẹn hơn nữa là họ hân hoan đóng vai hàng thần lơ láo, thốt ra những lời tâng bốc rẻ tiền, luôn tỏ ra vui vẻ đón nhận ơn mưa móc, theo Huy Đức: «Ba tháng sau, chính quyền thuyết phục được hai nhóm nhân sỹ nhận giấy phép ra báo tư nhân: Nhóm linh mục khuynh tả Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, làm tờ Đối Diện trước 1975, nhận Giấy phép số 01(59), ngày 4-7-1975, ra tờ bán nguyệt san Đứng Dậy. Cùng ngày 4-7-1975, nhóm linh mục Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh nhận Giấy phép số 02, ra tờ Công Giáo & Dân Tộc.
Phải tới ngày 22-7-1975, nhóm dân biểu đối lập Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, mới nhận Giấy phép số 03 ra tờ Tin Sáng». Trong khi đó Nam Đình, một “Việt Cộng nằm vùng”, thì từ chối. Theo ông Tô Hoà: “Nam Đình giải thích: tôi, chính trị không biết, làm báo kiểu này trên đe dưới búa thôi!”. Ông Tô Hoà nhận xét:
“Nam Đình chỉ cần nói thế đủ thấy ông ta hiểu chế độ mới và rất cáo già về chính trị”.» (2), tức coi mấy tên hý hửng nhận lời ra báo có khác gì cừu non, vậy mà cứ tưởng bở, như LQC: «Tôi không bao giờ than phiền về những khó khăn mà tôi phải đối đầu, bởi làm làm sao tin được rằng một cựu bộ trưởng thông tin của “ngụy quyền Sài Gòn” lại được tự do viết báo trong chế độ cộng sản?» (6).

Vẻ vang gì từ một dân biểu chuyên chống đối chính quyền, một chủ báo đối lập chính trị, giờ lại hài lòng với vai trò một ký giả chuyên mục văn nghệ -thể thao, dĩ nhiên là không kể bao nhiêu bài báo khác ca tụng chế độ mới kiểu ba xu, đại loại như: «Tôi yêu Hà Nội ngay từ đầu chạm mặt. Cuối năm 1975, tôi được báo Tin Sáng cử ra thủ đô lần đầu theo dõi phiên họp của Quốc hội triệu tập sau khi đất nước thống nhất. Tôi còn nhớ lòng mình xúc động thế nào khi từ sân bay Gia Lâm về Hà Nội đi ngang qua cầu Long Biên, giáp mặt với một khối sắt khổng lồ đen sì và cũ kỹ, trên đó đông nghịt người đi xe đạp và hầu như mọi người chỉ mặc một màu nâu sòng hay màu xanh bộ đội đã bạc... Đồng bào ruột thịt của tôi là đây! Chiếc cầu Long Biên đứng vững trước hàng trăm cuộc dội bom của phi cơ Mỹ, là đây!» hay « Cái nghèo, cái cực khổ của Hà Nội mà tôi chạm mặt lần đầu không hề gây sự thất vọng cho tôi, mà trái lại là sự cảm phục.… Để giành lại độc lập cho đất nước, mỗi miền đã chấp nhận sự hy sinh khác nhau nhưng đều là những hy sinh vô bờ bến. Có thấy cuộc sống khó khăn của Hà Nội thời đó mới càng nhận ra giá trị những gì chúng ta đạt được ngày hôm nay.» (6)
Hay như DVB: «Những ngày trong tháng 5-1975, đa số trí thức Sài Gòn cũ có chút tên tuổi và có dính líu đến các hoạt động chính trị, mà còn ở lại đều được quan tâm chăm sóc kiểu này hay kiểu khác. Thực tế không có một sự làm khó làm dễ nào, ...» (1). Không có làm khó dễ mà được cho khỏi vào tù cải tạo thì mừng như bắt được vàng, trái ngược hẳn với ghi nhận của Huy Đức: «“Giải phóng” xong, đội ngũ làm báo từ trước 30-4-1975 bắt đầu tan tác: một số kịp di tản, một số bị đưa đi cải tạo hoặc bị bắt do tham gia các “tổ chức phản động”.» (3).
Cũng theo DVB: «Ở Việt Nam từ sau ngày 30- 4- 1975, quan niệm về sự tự do của báo chí cũng khác hẳn quan niệm tự do báo chí thời chế độ cũ. … Thực tế mà nói hoàn toàn không có tự do báo chí thời kỳ Ngô Đình Diệm và thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu. Báo chí được sự chỉ đạo, hướng dẫn, quan sát, kiểm tra của Đảng để ngày ngày báo chí càng mạnh hơn, càng có sức nặng trước dư luận quần chúng, … trong hướng càng ngày càng phát triển các quyền tự do dân chủ cơ bản của nhân dân: đó là quyền tự do làm ăn kinh tế (nhờ đó mà lãnh án tù chung thân! (7)), …, đó là quyền được nói thẳng thắn về những điều còn khiếm khuyết (nhờ đó mà các hồi ký bị cấm phát hành!)…».
Quả là ăn ngược nói ngạo! Bợ đít tuyệt hảo như thế nên không ai dám dùng là phải!
Theo HNN: «Sau khi được tái bản năm 1975, Tin Sáng không bị tịch thâu, không phải in lậu bán chui nữa, … So với Tin Sáng bộ cũ, Tin Sáng bộ mới có ngon lành hơn, có nhà in riêng, lại in offset bốn màu, và có bộ phận phát hành riêng.» (5)

Thực tế ra sao?
«“Giải phóng” xong, đội ngũ làm báo từ trước 30-4-1975 bắt đầu tan tác: một số kịp di tản, một số bị đưa đi cải tạo hoặc bị bắt do tham gia các “tổ chức phản động”, số có may mắn được làm báo như Đối Diện, Tin Sáng chỉ chiếm một phần rất nhỏ nhoi. Những người làm báo chí, phát thanh, truyền hình quân đội như Phan Lạc Phúc, Tô Thuỳ Yên phải đi cải tạo từ mười đến mười ba năm. Nhà báo Trần Tuấn Nhậm, một trong những người chủ trương làm tờ Trình Bầy, năm 1971, khi ra tranh cử nghị sỹ đã dùng khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” với tranh minh hoạ hình Nixon vẽ râu Hitler. Năm 1979, ông Nhậm vượt biên nhưng bị bắt, và sau đó chết trong trại giam Bến Sắn.» (3), báo Đứng Dậy của Chân Tín bị cho «nằm xuống» vào cuối 1978, năm 1990 ông lại bị lưu đày (từ 16 tháng 5 năm 1990) và quản thúc ba năm vì tội tố cáo vi phạm nhân quyền (giảng 3 bài sám hối (cá nhân, giáo hội và đảng) ở nhà thờ Dòng Chúa cứu thế ở đường Kỳ Đồng Sài Gòn, Nguyễn Ngọc Lan cũng bị quản chế tại gia ba năm.
Còn tờ Tin sáng «ngon lành» thế nào?
Chính Chủ bút (sau là Tổng biên tập) HNN kể: «Chính quyền mới không có chế độ kiểm duyệt báo chí. Thậm chí khi Tin Sáng làm công văn xin Ban Tuyên huấn đưa người tới viết xã luận và duyệt bài, chính quyền cũng không thèm cử người. … Nhưng, trong nội bộ tờ báo, an ninh đã cài vào không ít đặc tình. Trong một báo cáo gửi “anh Sáu Dân, anh Chín Đào”, Văn phòng Thành uỷ đã yêu cầu: “Cơ quan an ninh cần tăng cường các biện pháp nghiệp vụ chặt chẽ hơn và tinh tế hơn nữa, để nắm chắc mọi hoạt động của các đối tượng trọng điểm trong Tin Sáng”. Nhiều bài viết của tờ báo này bị phát hiện ngay khi chưa kịp lên khuôn.
Tư Trời Biển Ngô Công Đức trước 1975 dám viết bài đả kích tổng thống Việt Nam Cộng hoà. Cũng Tư Trời Biển ấy, năm 1979, chỉ định viết bài cho báo Tết nhân danh bà hàng xóm ước mong: “Ngày mồng Một ra đường được gặp một nụ cười xuân, Nụ cười xuân nở trên môi anh cảnh sát”, đã lập tức bị “đặc tình” tố cáo. Ngày 11-1-1979, Phòng An ninh Bảo vệ Cơ quan Văn hoá PA 25 đã gửi công văn khẩn lên Thành uỷ, “yêu cầu xử lý” Tư Trời Biển vì cho rằng bài báo ám chỉ “xã hội ngày nay mất cả nụ cười”.» (5), chính đương sự cũng bị khốn đốn khi cho đăng lại nguyên văn câu nói của Đỗ Mười: «Mọi người phải lao động. Phải lao động mới có ăn. Không lao động thì bắt lao động rồi cho ăn. Đương nhiên là chủ bút phải lãnh đủ những búa rìu của những cú điện thoại tới tấp của lãnh đạo Thành phố và Trung ương, và của trợ lý của ông Đỗ Mười. Người ta trách tôi sao không dừng lại ở hai vế đầu.» (5), mới hay «nâng bi» không đúng ý chủ cũng là một cái tội!
Hay nghe Phó chủ bút DVB kể: «Để quản lý tốt nội dung tờ báo trong buổi đầu, khỏi lệch lạc với đường lối của TW Đảng, chính ông Trần Bạch Đằng đã lựa chọn một cán bộ kỳ cựu của Ban Tuyên Huấn TW, là ông Kỳ Phương, từng làm Tổng Biên Tập báo Đại Đoàn Kết ở Hà Nội, về làm cố vấn và thường xuyên ngồi tại toà soạn Tin Sáng cùng với anh Hồ Ngọc Nhuận duyệt lại các bài vở, các tin tức mỗi ngày trước khi cho lệnh in tờ báo. … tránh các sơ hở có thể vi phạm đường lối chính trị chủ trương của Đảng, rất dễ mang đến tai họa không lường trước được cho những người chủ trương và những người viết báo.» (1)

Tự do viết báo là như thế ư?
Thử hỏi còn kiểm duyệt làm chi khi họ được đánh giá là cộng sản hơn cộng sản: «Giáo sư Trần Văn Giàu đã đến thăm Tin Sáng vài lần, khi về lại miền Nam. Lần đầu ông nói: “ Các anh làm báo cộng sản như… cộng sản ”. Lần sau: “Các anh làm báo cộng sản hơn… cộng sản!”.» (5), tuy thuộc loại bảo hoàng hơn vua như thế vẫn bị phán là ngu, HNN khoe: «anh Ba Khiêm (Ung Văn Khiêm) xách gậy lại tòa soạn Tin Sáng thăm tôi. Anh ân cần hỏi thăm đủ chuyện, và tôi “hồ hởi báo cáo” anh đủ điều, từ việc làm báo đến việc “cải thiện tăng gia”. Nào làm sơn mài, nào nuôi cá, lớp trồng lúa, lớp nuôi heo, lớp… Chưa kịp khoe hết… của, một tiếng chát đập mạnh xuống bàn, kèm theo hai tiếng “đồ ngu”, làm tôi giựt mình cụt hứng. Anh Ba Khiêm giận thật tình nên mới chửi thật tình: “Đồ ngu! Làm báo không lo làm báo, lo đi nuôi heo, trồng lúa. Chú biết trồng lúa nuôi heo thế nào mà giành làm với nông dân, không để họ làm cho chú ăn, chú viết?”. Rồi hình như cái bản mặt thộn ra của tôi càng chọc anh thêm tức, anh xẵng giọng tiếp: “Tao chửi hoài mà sao vẫn chưa hết những thằng ngu như mầy! Bác sĩ phẫu thuật có bàn tay vàng, mầy không để yên cho người ta mổ, bắt đi trồng mì. Tay chai cứng họ mổ chết người, …”.» (5).

Nghĩ cũng tội cho thân khuyển mã, chửi thẳng vào mặt như thế mà cứ tưởng là khen, HNN thú nhận: «Tôi tin sự thành thật của hai ông Giàu và Khiêm, dù ông khen ông chửi. Ý chửi thì rõ rồi, chỉ có ý khen là chưa rõ lắm, định bụng có ngày đến thỉnh giáo. Nhưng từ khi Tin Sáng “hoàn thành nhiệm vụ”, ngày rộng tháng dài, có gặp lại giáo sư mấy lần mà vẫn quên hỏi. Hỏi cụ thể giáo sư muốn nói gì qua chữ “như” và chữ “hơn”. Bởi hai chữ đó dùng để khen hay để chê đều được cả. Với lại Tin Sáng chỉ sống có sáu năm… Như vậy thì “như” và “hơn” là… khen hay chê?» (5).

Cộng sản hơn cộng sản mà bị cấm làm báo, báo bị đóng cửa mà cứ lập đi lập lại là «hoàn thành nhiệm vụ» (!), cộng sản hơn cộng sản mà chẳng ai mời vào đảng, thậm chí xin vào đảng cũng không cho, chính LQC tự thú: «"Có một sự việc mà trước nay tôi chưa bao giờ nói ra: năm 1987 hay năm 1988, tôi không nhớ rõ, tôi có viết một thư riêng cho ông Kiệt lúc đó là Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ... tôi có bày tỏ với ông nguyện vọng ngày nào đó trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam." … "Tôi có nói với ông Kiệt việc nêu nguyện vọng ấy là một thái độ chính trị trung thực với chính mình ... Anh Tống Văn Công nghe tôi kể lại chuyện này có nói: "Thế thì anh mới đi theo ngọn cờ dân tộc của Đảng Cộng sản, còn ngọn cờ chủ nghĩa xã hội thì sao?", hay kể: «Sau khi đất nước hòa bình, tôi có hỏi nhà báo Huỳnh Bá Thành, một trong những người gần gũi với tôi trước năm 1975, vì sao anh không “móc nối” tôi vào Mặt Trận, anh cười cười nói “Các hoạt động của anh như thế trong lòng địch đã đáp ứng yêu cầu của cách mạng đối với một trí thức tiến bộ. Đưa anh vào tổ chức cũng thế thôi, nhưng có nguy cơ anh bị bắt và chịu không nổi tra tấn sẽ đổ bể tùm lum...”.» (6)

Rõ ràng là cộng sản có bao giờ tin bọn “cuốn theo chiều gió” này đâu, nhứt là loại trở cờ nhanh như vậy, để họ tiếp tục bợ đít có còn sướng hơn không? Sử dụng họ như một quả chanh, chừng nào vắt hết nước thì vứt vỏ đi có tiện hơn không?

Quả vậy, sau ngày 30-4-75, cái gọi là Mặt trận giải phóng hay Chánh phủ lâm thời còn bị chôn vùi không kèn không trống thì huống gì cái thành phần thứ ba, coi như chưa từng hiện hữu, vở lẽ sớm, một số đã cao bay xa chạy (Trương Như Tản, Châu Tâm Luân, Phạm Hoàng Hộ, …), một số cố chịu đấm ăn xôi, đến khi xôi hỏng bỏng không thì mới nhớ lại thời kỳ vàng son thuở nào (nội dung thư gửi Nguyễn Phú Trọng của HNN).

Chế độ Việt Nam cộng hòa tuy chưa hoàn hảo, nhưng so với chế độ cộng sản hiện hay thì hơn hẳn về mọi mặt (văn hóa, chính trị, luật pháp, …), «Thật khó có thể hình dung điều gì sẽ xảy ra cho miền Bắc Việt Nam nếu như không có sự kiện 30-4-1975. Cuộc chiến được nói là để giải phóng miền Nam đã thực sự mở mắt cho người dân miền Bắc. Tuy chính quyền miền Nam tìm mọi cách để hạn chế báo chí đối lập, nhưng Sài Gòn trước ngày 30-4 vẫn là một nơi có luật pháp để phục vụ quyền tự do ngôn luận.» (3), Việt Nam cộng hòa sụp đổ không phải vì thiếu nhìn xa trông rộng, chủ trương tố cộng từ giữa thập niên 50 thế kỷ trước là một quyết định sáng suốt, có tầm nhìn chiến lược, nhưng tiếc thay xã hội miền Nam bị loài sâu bọ làm băng hoại dần, ngay cả trong hàng ngũ gọi là quốc gia cũng có bọn chính khách hoạt đầu góp phần làm ung thối chế độ, cộng thêm sự thiếu may mắn là gặp phải một đồng minh không đáng tin cậy, chế độ miền Nam thường bị khống chế, tiếng nói không được lắng nghe, ai đọc được những tài liệu mật (Hồ sơ mật dinh Độc lập, Khi đồng minh tháo chạy của ông Nguyễn Tiến Hưng) mới thấy nỗi đau khổ tận cùng của một thân phận nhược tiểu.

Tuy mang danh là một siêu cường nhưng Mỹ lúc nào cũng thấp cơ thua trí hơn Việt cộng, đúng ra là Henri Kissinger kém xa mưu lược của cáo già Lê Đức Thọ, từ vai trò bảo vệ thế giới tự do, yểm trợ miền Nam chống quân xâm lược miền Bắc, Mỹ lại chấp nhận ngồi ngang hàng với họ, tức mặc nhận mình là nước xâm lược, hệ quả logique là quân xâm lược phải rút đi thôi, chế độ hợp pháp Việt Nam cộng hòa bị ép buộc chấp nhận ngồi ngang hàng với phiến quân, từ đó Mỹ và Cộng sản Bắc Việt cứ thậm thà thậm thụt đi đêm qua mặt Việt Nam cộng hòa, đôi khi nêu ý kiến thì cũng chẳng mấy quan tâm, nội việc bàn thảo về hình thù cái bàn (kéo dài gần 3 tháng trời) cũng cho thấy Việt cộng đã trên cơ Mỹ, theo dõi diễn tiến các cuộc thương thảo chính thức và mật đàm kéo dài trên 4 năm (1969-1973), Mỹ hết nhượng bộ này đến nhượng bộ khác để cuối cùng bỏ rơi Việt Nam một cách không thương tiếc, cuốn cờ bỏ chạy sau bao thiệt hại nặng nề về nhân mạng (non 60 ngàn tử sĩ, trên 300 ngàn thương binh trong đó khoảng 1/3 là phế nhân) và chiến phí (ước tính 140 tỷ mỹ kim theo thời giá 1974), trong khi quân Bắc Việt thì tự do ở lại miền Nam, rồi công khai ồ ạt đem quân từ miền Bắc chiếm trọn miền Nam trước sự dửng dưng của thế giới, tức xé toạt cái gọi là Hòa ước quốc tế được các bên cam kết và thị chứng (gồm cả Pháp, Anh, Tàu và các nước trong Ủy ban quốc tế kiểm soát đình chiến trước sự chứng kiến của Tổng thư ký Liên hiệp quốc).

Tóm lại, Việt Nam cộng hòa bị bức tử không phải vì không biết âm mưu thâm độc của cộng sản, không anh dũng chống lại quân thù mà vì sự nội tuyến của cái gọi là thành phần thứ ba và sự cả tín vào một đồng minh không đáng tin cậy.

Hòa ước ký xong (27/1/1973), Kissinger và Lê Đức Thọ cùng được trao giải Nobel hòa bình, chiến tranh vẫn tiếp diễn, chính danh là một giải hòa bình trên những xác người, mạng người tiếp tục gục ngã cho đến ngày 30-4-1975, tiếp theo là thảm nạn thuyền nhân, hàng triệu đồng bào miền Nam trốn chạy chế độ mới, trong đó 2/3 (theo ước tính của Cao ủy tỵ nạn) đã bỏ mình trên đường vượt biên, theo thống kê chính thức của Cao ủy tỵ nạn LHQ, tính đến năm 1990 có gần 740 ngàn tỵ nạn đến được bến bờ tự do, nếu theo ước tính lạc quan hơn (tỷ lệ thiệt hại nhân mạng là 50%) thì con số bỏ mình ngoài biển cả cũng xấp xỉ 740 ngàn.
Đặc biệt là Lê Đức Thọ từ chối nhận giải vì lý do “Hòa bình thực sự vẫn chưa được lặp lại”, tức miền Bắc đang chờ Mỹ rút hết để xua quân nuốt trọn miền Nam, về mặt này cho thấy Thọ dầu sao vẫn còn liêm sỉ hơn Kissinger, tên đạo diễn dâng trọn miền Nam cho cộng sản, đầu mối gây ra thảm họa thuyền nhân mà vẫn hí hửng nhận giải.

Huỳnh Vạng Lộc
9-2015

Ghi chú :
(1) Những ngã rẽ (hồi ký) -Dương Văn Ba
(2) Chính đương sự tự thuật trong hồi ký Mémoires d’un Vietcong (Ch 24 -L’exil)
(3) Bên thắng cuộc -Huy Đức
(4) Thư của Hồ Ngọc Nhuận gửi Nguyễn Phú Trọng ngày 23/7/2015
(5) Đời (hồi ký) -Hồ Ngọc Nhuận
(6) Hồi ký không tên -Lý Quý Chung
(7) Dương Văn Ba -Phó giám đốc công ty khai thác gỗ Cimexcol Minh Hải bị tòa án Bạc liêu kết án chung thân ngày 24/4/1989 với tội danh tham ô tài sản XHCN, nhưng theo DVB kể thì y là nạn nhân của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: «Tôi bị ông Nguyễn Văn Linh - Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa VI, ra lệnh bắt bỏ tù vào ngày 22 tháng 12-1987 trong cuộc họp tại Hà Nội do ông triệu tập. …Là một tay cáo già trong việc từ từ nắm quyền lực, ông Nguyễn Văn Linh trong kế hoạch thực hiện vụ án Cimexcol Minh Hải mà mục tiêu chủ yếu là để đánh thẳng vào ông Võ Văn Kiệt, ông Nguyễn Văn Linh đã hai lần chiêu dụ ông Lê Văn Bình, Chủ tịch tỉnh Minh Hải, tố giác tôi, Dương Văn Ba, là gián điệp mà CIA Mỹ đã cài lại trong kế hoạch hậu chiến.» (1)

http://www.vietagenda.org


Đại trí thức

Qua hai mảnh đời của hai trí thức với bằng cấp từ đầu đến chân nhưng sự hiểu biết về cộng sản thì bằng số không vì vậy mới nhẹ dạ tin theo mãi cho đến cuối đời mới thức tỉnh.
Có rất nhiều trí thức bị lầm tưởng chủ thuyết cộng sản là chủ thuyết dân tộc, nhưng họ đã lầm vì chủ thyết cộng sản chỉ là chủ thuyết độc tài đảng trị, nhân dân chỉ là một chiêu bài để họ lợi dụng thực hiện một cuộc cách mạng cho đến khi thành công, thì chính người dân sẽ trở thành nạn nhân của thứ chủ thuyết ma quái này.
Phải luôn ghi nhớ rằng cộng sản là loài trùng độc ẩn nấp trong nhân dân, do đó mọi việc làm của họ đều nấp dưới chiêu bài vì dân. Muốn tiêu diệt loài trùng độc này chỉ có nhân dân mới làm được, mọi tầng lớp nhân dân đều đồng lòng cùng đứng lên, mỗi người góp một bàn tay tiêu diệt hết loài trùng độc (cộng sản) thì khi ấy đất nước mới thật sự thanh bình.
Như văn hào Boris Yelsin bỏ đảng cộng sản Liên sô và tuyên bố: “Cộng Sản không thể sửa đổi ”
Vì thật ra nếu Cộng Sản chịu sửa đổi thì đâu còn gọi là cộng sản nữa.
Cộng sản chính là một chế độ phong kiến cực đoan theo đường lối (Cha chuyền con nối)
Cộng sản cũng là một chủ nghĩa độc thần (chỉ tôn thơ lãnh tụ cộng sản) chúng sẽ thần thánh hóa các lãnh tụ (đại gian, đại ác) để trở thành thần thánh cộng sản duy nhất trên trái đất này.
Chúng ta phải luôn tỉnh thức trước mọi luận điệu tuyên truyền của cộng sản.
"Đừng nghe những gì cộng sản nói - Mà hãy nhìn những gì cộng sản làm"
Lời của cựu Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu vẫn là một chân lý đúng nhất về chủ nghĩa Cộng Sản.

Bài học để đời cho những đại trí thức VN lầm đường

Nỗi nhục ám ảnh suốt đời

1. Trí thức NGUYỄN MẠNH TƯỜNG

Nói tới tên ông, nhiều người Việt nghĩ ngay tới việc ông đỗ hai bằng tiến sĩ, Văn và Luật tại Montpellier, Pháp trong một năm, lúc mới 23 tuổi. Ngoài ra, người ta không nhớ ông đã làm được công nghiệp gì tương xứng với tài năng và công lao học tập! Điều đó không có chi lạ. Ông đã theo “Hồ tặc” đi kháng chiến, và kể từ lúc ấy, đời ông kể như đã đi vào ngõ cụt. Đã có quá nhiều sách báo nói về ông Nguyễn Mạnh Tường và những tháng ngày thê thảm của ông và gia đình ông, dù bản thân ông chưa phải là trái chanh đã hết nước trong tay Cộng. Nếu không đọc cuốn sách Un Excommunié do chính ông viết, chúng ta khó tưởng tượng ông “lưỡng khoa tiến sĩ” này lại bị đau nhục dưới tay “vượn người” như thế! Nhưng vì đâu nên nỗi?
Hoàn cảnh lịch sử? Lòng yêu nước, hay sự bịp bợm của cộng sản đã đưa ông vào thảm trạng?
Năm 1936, cậu thanh niên 27 tuổi, với hai bằng tiến sĩ từ mẫu quốc hồi hương, tương lai sáng rỡ như mặt trăng mặt trời. Cậu trở thành giáo sư trường Lycée du Protectorat tức trường Bưởi, rồi cậu mở văn phòng luật sư tại hai biệt thự tại thủ đô Hà Nội. Khi cộng sản cướp chính quyền, cậu hào hứng hiến luôn cả hai biệt thự cho nhà nước. Kháng chiến bùng nổ, cậu không ngại gian lao, xách khăn gói vào Khu Tư, tức Thanh Hóa theo “Bác.”

Chiến tranh tạm ngừng năm 1954, nhà trí thức lúc ấy đã mỏi mệt vì những điều tai nghe, mắt thấy về Đảng và “bác”, nhưng cổ đã vướng tròng, khó bề thoát ra. Trở về Hà Nội, ông được cộng sản ấn vào tay một lô chức tước “phó”, vô danh và… vô thực luôn: Phó chủ tịch Hội Luật Gia Việt Nam, phó Trưởng khoa Đại Học Sư Phạm, thành viên Hội Hữu Nghị Việt-Xô, v…v..
“ Đó là các chức vụ hoàn toàn có tính cách lễ nghi, không hiệu năng mà cũng chằng có thực quyền, đó là những chức vụ mà tôi chỉ là kẻ dư thừa .”

Năm 1956, có phong trào Đòi tự do, dân chủ của các báo Nhân Văn, Giai Phẩm. Báo Nhân Văn đăng bài phỏng vấn ông Nguyễn Mạnh Tường. Ông vạch trần tính chất phản dân hại nước của cộng sản:
“Đảng Viên đảng Lao Động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tính thần dân chủ, xa lìa quần chúng, tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình… ”
Dĩ nhiên, ông cũng còn tin cộng sản có thể sửa đổi được, và ông đề nghị những biện pháp sửa đổi! Ngày nay, dù đã có một tay cộng sản gộc, chính tông, là Boris Yelsin bỏ đảng và tuyên bố: “Cộng Sản không thể sửa đổi ”, nhiều ông trí thức của ta vẫn tin rằng có thể dùng kiến nghị, thư ngỏ… để thay đổi chính sách của Cộng sản. Cộng sản dĩ nhiên không thèm đếm xỉa gì đến những đề nghị của ông Tường; nhưng lãnh đạo Cộng sản lại dương những con mắt cú vọ quan sát, nhằm “chiếu tướng” ông trí thức. Ngày 30 tháng 10 năm 1956, ông luật sư, giáo sư, kiêm luôn bao nhiêu chức Phó và Thành viên các hội, đọc một bài diễn văn tại cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc, phân tích những khốc hại đẫm máu của việc Cải Cách Ruộng Đất, và đề ra phương hướng để tránh mắc lại! Ông Trí thức lúc ấy chắc vẫn tin là cộng sản mắc “sai lầm”, chứ không phải là chúng chủ tâm và tỉ mỉ hoạch định đủ phương kế để giết người và cướp đất ruộng. Sau bài diễn văn với những đề nghị này, nọ của ông, dây thừng quanh cổ ông được cộng sản xiết chặt lại. Bao nhiêu chức tước vớ vẩn của ông được gỡ sạch. Ông bị đưa ra đấu tố tại trường Đại Học cho học trò ông xỉ vả, mắng mỏ; ông bị ra trước Mặt Trận Tổ Quốc để các “đồng chí” của ông đấu đá. Ông bị các đảng viên đảng Xã Hội, một đảng bù nhìn do cộng sản nặn ra để trang trí cho chế độ, đấu tố ông lần chót. Ông chống trả rất can trường, với lập luận sắc bén của một luật sư có tài. Nhưng rồi ông đau khổ nhận rằng:
“Con cừu thì không thể lý luận với một con chó sói”.

Số phận ông đã được Cộng đảng quyết định: Bỏ cho chết đói giữa một sa mạc hận thù không lối thoát. Ông than thở.
“Tôi đã là kẻ lữ hành trong chuyến đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958 đến năm 1990, hơn ba mươi năm dài đằng đẵng! Chìm trong vùng cát của sa mạc tuyệt vọng làm cạn khô dòng nước mắt, tôi đã lê tấm thân bị tra tấn bởi thiếu thốn cô đơn với quả tim rướm máu bởi nỗi buồn chua cay và vị đắng của mật!” Trong ba mươi năm dài ấy, nhà trí thức sống ra sao?
Ông kể lại:
“Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen sa hoa của những người tư sản. Tiếp đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn trưa và tố́i. Khẩu phần cơm rau mỗi ngày một ít đi, và đến lúc mỗi ngày chúng tôi chỉ có một bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông thấy. Bao nhiêu sáng láng đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói.”
Trong cơn khốn cùng như thế, gia đình ông Tiến sĩ “may mắn” có được một con gà mái “mắn đẻ một cách đáng ngạc nhiên ”. Mỗi ngày con gà cho một trái trứng, và mỗi người trong gia đình thay phiên nhau hưởng. Muốn cho gà đẻ trứng, thì phải cho nó ăn. Khốn nỗi người còn sắp chết đói, lấy đâu gạo, bắp cho gà! Nhà trí thức ‘phát huy sáng kiến’: “mỗi ngày, vào lúc hoàng hôn, khi chợ đã vắng người mua bán, tôi lượn quanh để lén nhặt những mảnh rau vụn, tránh không để người qua đường nhìn thấy, mang về nuôi nó”
Thê thảm không còn gì để nói! Nhưng con gà, dù mắn đẻ, tất cũng không nuôi sống nổi cả gia đình của ông tiến sĩ. Ông phải đau khổ, năn nỉ những kẻ có tiền để họ mua những thứ ông có thể vơ vét ở trong nhà: sách vở, quần áo của ông, son phấn , tóc giả của bà, muỗng nĩa trong bếp… Giống hệt tình cảnh của toàn dân miền Nam năm 1975 khi được cộng “giải phóng.” Ba mươi năm vật lộn mỏi mòn, chỉ để khỏi chết đói!

Cộng sản đã trả công cho sự nhiệt thành và công lao hạn mã của ông bằng cái đói và nhục. Nhiệt thành, say sưa, vì khi Cộng mới nổi lên, ông đã đem tất cả nhà cửa hiến dâng cho đảng. Công lao hãn mã, vì ông đã lặn lội sang tận thủ đô Bruxelles của Bỉ, năm 1956, đem tài hùng biện, chứng minh với Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ thế giới, là Bắc cộng có “chính nghĩa” khi dùng súng đạn để “giải phóng miền Nam ” Nhưng xem tư cách và sự phản ứng can trường của ông trong suốt 30 năm bị cộng mưu dìm cho chết, chúng ta ngậm ngùi thương ông hơn là oán giận. Ông đã lạc đường vào lịch sử và bị vây bọc trong hoàn cảnh khó khăn. Không khuất phục được ông, bọn cộng vô học ghen, tức, đầy đọa và hạ nhục ông.

So sánh với những anh “trí thức” hải ngọai ngày nay, từng kinh hoàng bỏ chạy khi cộng sản tới, lại được chứng kiến sự tan rã tận gốc của cái chủ thuyết giết người tàn độc, mà vẫn xun xoe đưa đầu cho cộng sai khiến, chúng ta phải kinh ngạc về sự “khả úy” của các “trí thức” hậu sinh. Ông Nguyễn Mạnh Tường có lẽ đã trả được mối thù với bọn việt cộng bằng cách mô tả sự tàn độc của chúng trong hai cuốn Hồi Ký mà ông để lại cho đời.
Ông đã từ giã cuộc đời ngày 13 tháng 6 năm 1997.

2. Trí thức DƯƠNG QUỲNH HOA

Dương Quỳnh Hoa sinh trưởng trong tầng lớp thượng lưu của xã hội Việt Nam. Theo học y khoa tại Saigon rồi sang Pháp năm 1948 học tiếp và đỗ bác sĩ năm 1953. Ăn phải bả Cộng sản, bà liên lạc với Cộng sản Pháp, gia nhập cộng đảng vào cuối thập niên 1950 và hoạt động cho Cộng trong thời gian ở Pháp từ 1948 đến 1954. Sau 1954, bà về Saigon nằm vùng và do thám cho cộng. Năm 1960, được bọn Bắc cộng giựt dây, bọn theo cộng miền Nam thành lập Mặt Trận Giải Phóng. Bà Hoa là một sáng lập viên của cái Mặt Trận này. Năm 1968, sau vụ đại bại của cộng quân, mụ cùng chồng trốn ra bưng với Việt cộng, và được cho làm Bộ Trưởng Y Tế. Trong thời gian ở trong bưng, đứa con trai nhỏ của mụ đã chết vì bệnh sưng màng não. Chồng bà là Huỳnh Văn Nghị được V. cộng dụ dỗ cho nhập Đảng; nhưng ông Nghị nhận rõ bộ mặt thật của bọn giải phóng, nên tìm cách khước từ “vinh dự” đó. Năm 1975, sau khi chiếm được Miền Nam, bọn Bắc Cộng ra tay xóa sổ cái Mặt Trận Giải Phóng.
Những "Thang ; con" trót bán linh hồn cho quỷ trong Mặt Trận, như : Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trương Như Tảng… và bọn lủng lẳng đứng giữa như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung… đều vỡ mặt, tẽn tò như một lũ con nít bị lừa không được ăn kẹo! Chính bà Hoa sau này đã thú nhận việc đi theo Cộng là một ảo tưởng chính trị trong đời bà. Ngày 17 tháng 10 năm 1996, khi được tờ báo Far Eastern Economic Review phỏng vấn:
“Quel est l’évenement le plus marquant pendant les 50 années passées?”
Bà trả lời:
“L’effondrement du mur de Berlin qui a mis un terme à la “grande illusion”
dịch tạm: Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua?
Bà DQH:  Sự sụp đổ của bức tường Bá Linh đã chấm dứt một “ảo tưởng lớn”
Khi được Stanley Karnow phỏng vấn về sự thất bại của cộng sản Việt nam, bà nói:
“Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đã hết ”.[I have been a communist all my life, but now I’ve seen the realities of Communist, and it is a failure - mismanagement, corruption, repression. My ideals are gone”]
Cuối thập niên 1970, bà nói với Nguyễn Hữu Thọ:
“Tôi và anh chỉ là những kẻ bù nhìn, là những món đồ trang sức rẻ tiền. Chúng ta không thể nào phục vụ một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ.”
Khi được phỏng vấn về bọn lãnh đạo Việt cộng, bà lạnh lùng trả lời:
“Đó là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản”.
Trong những câu bà Hoa nói trên, chúng ta nên chú ý đến câu
“Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản…”
Đó chính là một lời thú nhận là:
dù học hành nhiều như bà, được sống trong một nước tự do như nước Pháp, có thừa phương tiện tìm hiểu, nghiên cứu, bà đã không biết gì về chủ nghĩa cộng sản!
Ngày 25/2/2006, người nữ cán bộ cộng sản đã góp công không nhỏ cho cộng sản đặt cái ách khốn cùng trên đầu đồng bào của bà, lặng lẽ bị các oan hồn chết vì giặc cộng, đưa về trước Diêm Vương để nghe phán xét tội lỗi. Cái bạo quyền bà đã hy sinh hết tuổi thanh xuân và tài năng để dựng nên nó, không có được một lời nói về bà. Mang “ảo tưởng”, tự hiến mình làm “bù nhìn, đồ trang sức rẻ tiền”, “không biết sự thật về cộng sản mà vẫn theo chúng” thì kết quả đương nhiên chỉ có như thế.

Các vị trí thức tiền bối như Nguyễn Mạnh Tường, Dương Quỳnh Hoa, do hoàn cảnh lịch sử hoặc do sai lầm nhất thời, đã có lúc theo cộng hay thân cộng. Nhưng khi nhận rõ bộ mặt phản dân hại nước của cộng sản, họ đã có phản ứng quyết liệt. Trí thức Nguyễn Manh Tường đã dõng dạc tuyên bố:
“Tôi không hề tham gia mặt trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người yêu nước, luôn luôn ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên tôi tự xác định cho mình một vị trí là làm một người trí thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì không nên tham chính. Người trí thức phải đứng về phía nhân dân, chứ không đứng về phía nhà cầm quyền”.
Ông cũng đã can đảm nhận chịu 30 năm đọa đầy thê thảm chứ không đầu hàng cộng. Khi thoát khỏi sự kiềm chế của Cộng sản, ông đã viết hai cuốn sách:
(1) Un Excommunié – http:// ;http://www.ethongluan.org/
(2) Une Voix Dans La Nuit http://www.viet.rfi.fr/vi%C3%AAtnam/20110918-plan-vii-nguyenmanh-tuong-tieu-thuyet-une-voix-dans-la-nuit-ii-van-de-tri-thuc-v , bày tỏ lập trường của trí thức, và mô tả sự xấu xa tàn độc của Cộng sản. Cuốn Une Voix Dans La Nuit, [chưa xuất bản, được bà Thụy Khuê trích dẫn và bình luận trong Website của RFI] viết về về sự thiết lập chế độ ác ôn cộng sản ở Việt Nam. Ông viết xong vào năm 1993, lúc đã 85 tuổi, chứng tỏ ông trí thức vẫn nặng lòng vì đất nước. Bà Dương Quỳnh Hoa cũng dứt khoát vứt bỏ mọi ưu tiên mà chế độ dành cho bà, để quay về vị trí của người trí thức.

BXCanh


Những ngã rẽ

Hồi ký - Dương Văn Ba

Dương Văn Ba sinh năm 1942 tại Bạc Liêu. Năm 1961 đậu vào Đại Học Sư Phạm Đà Lạt, sau khi tốt nghiệp tháng 8.1964 được bổ nhiệm về Mỹ Tho dạy môn Triết lớp Đệ nhất (tương đương lớp 12 bây giờ). Tham gia hoạt động chính trị, trở thành một trong những dân biểu trẻ thuộc phái đối lập trong Hạ nghị viện khóa 1967-1971 thời Việt Nam Cộng Hòa.
Đầu năm 1968 bước vào nghề báo với các bài xã luận thường xuyên đăng trên nhật báo Tin Sáng, rồi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tuần báo Đại Dân Tộc. Từ tháng 11. 1971, sau khi thất cử Hạ nghị viện, đã cùng vài đồng nghiệp chủ biên nhật báo Điện Tín. Cuối năm 1972, để trốn lính, dọn vào ở và tiếp tục làm báo tại Dinh Hoa Lan của tướng Dương Văn Minh. Ông được cử làm Thứ trưởng Bộ Thông tin trong chính quyền ngắn ngủi 3 ngày của Tổng thống Dương Văn Minh, nhờ vậy đã có dịp chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong những ngày cuối cùng của chế độ.
Sau 30.4.1975, tiếp tục làm báo ở nhật báo Tin Sáng. Từ 1984 đến 1987, hoạt động hợp tác kinh tế với Lào với tư cách là phó giám đốc Công ty CIMEXCOL Minh Hải, và mặc dù ăn nên làm ra nhưng vẫn bị chính quyền bắt nhốt vào ngày 25.12.1987, ra tòa tại Bạc Liêu với án chung thân. Dư luận cả nước đều coi đây là một trong những vụ án lớn “có vấn đề” của chế độ mới XHCN mà khi đọc hồi ký Những ngã rẽ này người đọc sẽ được rõ thêm.
Sau khi được ra tù trước thời hạn vào ngày 30.4.1995, ông làm ăn liên tiếp thất bại, mất hết tài sản, phải ở nhà thuê trong suốt nhiều năm. Hiện bị tai biến xuất huyết não, nằm bất động khoảng 6 tháng nay trên giường bệnh.

***

Chương 1:
CHUYỆN THUỞ MỚI LỚN

............................................................................

Thời sinh viên và tự do tư tưởng
Huỳnh Phan Anh và tôi cùng đậu vào trường Đại học Sư phạm Đà Lạt giữa năm 1961. Hai chàng trẻ tuổi đầy ước mơ và tham vọng làm một chuyện mới trong thực trạng văn hóa thời đó.
Ở Đà Lạt trong khung cảnh nên thơ của xứ thông reo và xứ hoa đào, chúng tôi vùi đầu vào sách vở triết lý tôn giáo, xã hội học, văn chương hiện thực, hiện sinh. Giữa vòng tay của tôn giáo và giáo điều, những chàng thanh niên đó mơ làm kẻ nổi loạn, vô thần, không tin có Chúa ở trên trời.
Tôn giáo là cái mũ, cái áo mặc ngoài, con người đàng sau và bên trong vỏ bọc là gì? Thần thánh hay trần tục. Xác thịt hay cao thượng. Tất cả là sản phẩm của suy tư được nhào nặn trong thực tế va chạm của cuộc sống. Chỉ có con người tự quyết định và làm nên số phận của mình từng phút, từng giờ. Con người là sản phẩm của chính anh ta trong cuộc vật lộn với người khác, với môi trường và thế giới chung quanh. Con người tự quyết định lấy số phận của mình không ai sống dùm và sống thay kiếp sống của người khác. Tôi suy tư vậy là tôi hiện có. Tôi suy tư là tôi sống và quyết định đời sống của tôi mỗi giây phút đi qua.
Giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, giữa giảng đường thênh thang lúc nào cũng ẩn hiện hình bóng Chúa, chúng tôi không một ngày đi nhà thờ cầu nguyện, cũng không một buổi ghé Chùa Linh Sơn tĩnh tâm. Chúng tôi lăn xả vào sách vở cũng như thả hồn suy tư, bay tản mạn theo khói thuốc lá, theo những dòng nhạc lãng mạn thời thượng hàng đêm ở quán Càphê Tùng. Tiếng hát u uẩn của Thuý Nga, tiếng hát da diết buồn của Thanh Thuý lúc nào cũng văng vẳng bên tai. Chúng tôi sống theo những suy nghĩ riêng vừa thu nhặt được từ sách vở hiện sinh, từ văn chương hiện thực xã hội. Sartre hay Camus? Về tư tưởng triết học, về quan niệm văn chương hư vô hay nổi loạn. Goethe hay Kant? Jesus Christ hay Karl Marx? Tất cả chỉ là suy tư, giáo điều. Tất cả chỉ là tư duy của một thời kỳ (nghĩ như thế có chắc đúng không?!)
Con người phải làm lại từ đầu và làm lại tất cả. Đó là sự sáng tạo, sự tiến lên của dòng chảy vận động văn hoá xã hội. Một cuộc phiêu lưu, va chạm trong tư tưởng không bến không bờ, phá vỡ các công thức, các giáo điều, các lý tưởng.
Con người không phải là tượng đá. Con người luôn thay đổi, luôn hình thành. Tôi là ai? Hôm nay và ngày mai. Đó là sự phát triển không giới hạn. Đó là tự do. Tự do tư tưởng là phá vỡ các giới hạn, các ràng buộc. Cách mạng tư tưởng là phá xiềng tinh thần. Điểm khởi đầu cho các xáo trộn và đổi mới xã hội.
Những chàng thanh niên trí thức thời kỳ 1960-1963 sống trong tâm tình và suy tư tương tự như thế. Và vì không có một chỗ để đỡ đầu, để tựa lưng cho nên phương hướng của họ là sự vô phương hướng.
Nhớ lại giai đoạn đó tôi và bạn bè thường sống trong nỗi suy tư và tâm tình của những kẻ nổi loạn (Revolté).
Nhiều người đã nổi loạn và có lẽ đã may mắn (sic), gặp con đường đi làm cách mạng theo kiểu cộng sản. Trong giới sinh viên Đại học Đà Lạt thời đó không thiếu những chàng trai âm thầm đi theo tiếng gọi của cộng sản. Võ Văn Điểm, Nguyễn Trọng Văn, sau nữa… Cao Thị Quế Hương… là thể hiện tích cực của những tình cảm nổi loạn, bức phá.
Đại đa số đi theo chiều ngược lại. Hiện sinh, vô thần, không chấp nhận khuôn thước, rào cản, luôn đi tìm cái mới. Trong số những người này có Huỳnh Phan Anh, Huỳnh Đạt Bửu, Võ Văn Bé, Tô Văn Lai, Huỳnh Quan Trọng…và nhiều thanh niên khác đứng giữa dòng cộng sản và tôn giáo.
Chúng tôi đi không bến không bờ
Trước mặt là dòng sông, sau lưng là nghĩa địa
(thơ Tô Thuỳ Yên, nhóm Sáng Tạo)
Não trạng sống của trí thức Sài Gòn, trí thức miền Nam thời bấy giờ tương tự như thế. Còn ngày mai sẽ ra sao? Đó là những bến bờ không định trước được của lịch sử. Tôi và nhiều bạn bè đã rời ghế trường đại học trong hoàn cảnh suy tư đó. Chúng tôi đã bị xô đẩy và vùi dập bởi nhiều cơn sóng lớn nhỏ của lịch sử kể từ 1965 về sau này.
...............................................................

Chương 3

DẠY HỌC

Những người Thầy và những ngôi trường muôn đời
Tháng 8 năm 1964, từ Đà Lạt, tôi được bổ nhiệm về Mỹ Tho dạy tại trường trung học Nguyễn Đình Chiểu .
Ở miền Nam, thời thực dân Pháp có bốn trường trung học lớn do nhà nước thành lập :
- Sài Gòn có trường trung học Pétrus Ký, trường Gia Long dành cho nữ sinh đi học mặc áo dài tím, còn gọi là trường áo tím
- Mỹ Tho có trường trung học Ecole le Myre de Vilers sau này đổi lại là trung học Nguyễn Đình Chiểu.
- Cần Thơ có trường trung học Phan Thanh Giản, nơi đào tạo các học sinh giỏi thuộc lưu vực sông Hậu Giang như Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau, Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc.
Trường Nguyễn Đình Chiểu đón rước học sinh Tân An, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Bến Tre, Cao Lãnh.
Từ năm 1965 trở về trước đó, đỗ bằng thành chung (Diplôme), đỗ bằng Brevet, đỗ tú tài I - tú tài II, đã được coi là có học thức. Nhiều thanh niên vác được các mảnh bằng đó ra đời kiếm cơm khá dễ.
Ba trung tâm giáo dục Sài Gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ đã đào tạo nên nhiều thế hệ thanh niên yêu nước.
Các trường này cũng từng là cái nôi của nhiều phong trào đấu tranh học đường, sản sinh ra nhiều lớp thanh niên ưu tú yêu nước, yêu tự do dân chủ, đòi hỏi công bằng xã hội. Họ là nồng cốt thúc đẩy bước tiến lên của dân tộc.
Viết lại lịch sử của các nhà trường lớn, lập phòng truyền thống của các nhà trường là một điều nên làm. Trước 1975, rất ít trường ghi lại lịch sử của mình để các thế hệ tiếp nối có thể hiểu được thêm một khía cạnh văn hoá của các lớp đàn anh. Giữ gìn truyền thống học đường, ghi chép lịch sử của các lớp thầy cô giáo, của các thế hệ học sinh là lưu giữ cho mai sau những dấu tích văn hoá của từng khu vực tiến bộ xã hội.
Mỗi đầu năm học, mỗi cuối năm, các trường nhắc lại quá khứ của mình để thầy cô giáo và học sinh biết rõ mình đang đứng ở đâu vào thế hệ thứ mấy được sản sinh từ trong lòng các mái trường. Có nhắc, có ôn lại mỗi bước đi, mỗi sự lớn lên, thay hình đổi dạng, con người mới nhớ lại mình là ai, đang ở đâu, được nhào nặn thế nào và biết mình sẽ làm gì, phải làm gì khi bước ra khỏi mái nhà của thời niên thiếu.
Các trường học của quê hương đã mọc lên từ thưở nào, đã trải qua bao nhiêu giông tố của lịch sử, các trường vẫn không già, vẫn cho ra bao lớp tài năng. Nhà trường, một chặng đường được nhào nặn với bao nhiêu kỷ niệm, suy tư, trăn trở, tiếp thu để lớn lên, để định hình con người, thật không thể nào quên được.
Cha mẹ đẻ ra thân xác này, nhà trường với các thầy cô đẻ ra khối óc này, trái tim này. Ôi! Những mái nhà thân yêu của vạn vạn người con, của hàng triệu trái tim khối óc, các trường đã thổi cho mỗi người chúng ta thành những Phù Đổng của tương lai. Những thầy cô thân yêu trong cuộc sống của học trò luôn có hình bóng, cử chỉ, suy tư, luôn có tấm lòng của các người.
Nguyễn Đình Chiểu, Pétrus ký, Phan Thanh Giản, Gia Long, Chu Văn An, Taberd, Võ Trường Toản, Jean Jacques Rousseau… và hàng trăm hàng ngàn trường khác ở khắp mọi miền, các người, những người thầy vĩ đại của lịch sử đã hun đúc tim óc của mai sau, chúng con xin dâng tặng các người những bông hoa tươi thắm nhất.
Niên học 1964-1965, trường trung học Nguyễn Đình Chiểu có ba thầy dạy triết học.
Thầy Trần Quang Minh phụ trách lớp Đệ nhất C (văn chương) và hai lớp Đệ nhất B (toán), thầy Phạm Thanh Liêm phụ trách ba lớp Đệ nhất B và tôi phụ trách ba lớp Đệ nhất A. Thầy hơn trò khoảng 5-6 tuổi. Lớp học trao đổi với nhau thoải mái. Các thầy luôn đặt ra các vấn đề. Triết học là đối thoại tìm hiểu, phân tách và tổng hợp, kể cả phê phán.
Trình độ ABC trong triết học nhập môn, thầy cố gắng mở các cánh cửa của các giáo điều để học sinh nhìn thấy bầu trời tư tưởng rộng thênh thang, không đóng kín, không dừng lại ở những tín điều cũ kỹ.
Triết học là đi tìm, là tập cách suy tư, cách đặt các vấn đề, là tìm giải đáp cho các vấn đề của đời sống vật chất, đới sống tâm linh và đời sống xã hội.
Kiếp người là kiếp diễn biến, luân lưu không bao giờ dậm chân tại chỗ. Có chăng định mệnh? Tôn giáo là gì? Giải quyết các vấn đề nào của đời sống tinh thần? Chủ nghĩa vô thần đúng hay sai? Thuyêt hữu thần đúng chỗ nào? Con người nương dựa vào đấng tối cao hay nương tựa vào nhau? Karl Marx là ai? Chủ trương duy vật của ông sẽ đẩy xã hội đến đâu?
Suy tư triết học là suy tư tìm cội nguồn, căn nguyên. Thầy và trò quần thảo nhau mỗi tuần 3 - 4 giờ cho một lớp học. Các em sắp kết thúc lớp cuối cùng của chương trình trung học phổ thông, đi vào đời, đi vào đại học, các em cần được khêu gợi các vấn đề căn bản của cuộc sống xã hội. Thầy đã làm công việc đó với tư cách của người mở cửa chào đón và giới thiệu chương trình. Các em hãy suy nghĩ ngay từ hôm nay về cuộc sống cơ bản của mình, hãy lựa chọn, hãy quyết định.
Đạo là con đường. Đạo đức là con đường dẫn tới cuộc sống có ánh sáng văn hoá, văn minh. Đại học là phương pháp giúp con người đi vào văn minh. “Đại học chi đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại chí ư chí thiện”.
Những giờ triết học ở lớp Đệ nhất là những giờ thầy bắt đầu mở cửa cho các em đi vào một thế giới đầy rẫy những vấn đề ngổn ngang của cuộc sống bản thân và xã hội. Bản thân thầy cũng phải đi tìm như các em. Rồi mỗi người phải tự đi tìm cách sống, con đường sống thích hợp riêng. Thầy cùng các em đặt vấn đề. Thầy gợi ý một số cách trả lời. Các em có câu trả lời cho riêng mình trước xã hội, trước tâm linh, trước gia đình, trước kẻ khác. Đó là mục tiêu cốt lõi của môn triết học vào năm cuối cùng của bậc trung học.

Thầy giáo xưa được trọng vọng
Lương thầy giáo cấp 3 (hồi trước gọi là Trung học Đệ nhị cấp) mỗi tháng được 7.800 đồng (bảy ngàn tám trăm đồng) vào năm 1964. Mỗi tuần tôi dạy nghĩa vụ chinh thức 16 giờ. Ngoài ra, thầy nào cũng có cơ hội dạy thêm giờ phụ trội. Tôi được ông Giám học trường Nguyễn Đình Chiểu lúc bấy giờ là ông Lâm Văn Trân, người Châu Đốc, phân thêm 16 giờ phụ trội.
Mỗi giờ thù lao nhà nước chi trả thêm là 100 (một trăm đồng). Hàng tháng tôi lãnh thêm 6.400 (sáu ngàn bốn trăm đồng) tiền lương phụ. Tổng cộng mỗi tháng tôi được hưởng 14.200 (muời bốn ngàn hai trăm đồng).
Ở Mỹ Tho tôi mướn căn nhà 400đ/tháng, chi tiền gạo, chợ, tiền điện nước mỗi tháng thêm 1.200đ (một ngàn hai trăm đồng). Tiền xài lặt vặt cà phê, ăn sáng, nhậu lai rai mỗi tháng 500đ (năm trăm đồng). Tổng chi phí gia đình thầy giáo một vợ hai con năm 1965, sống phủ phê là 4.000đ (bốn ngàn đồng). Vàng y (vàng 24 cara) lúc đó giá 4.000đ / lượng. Hàng tháng tôi vẫn có dư để dành gần 2 lạng vàng.
Các thầy dạy môn Toán, Lý Hóa, Anh văn dạy phụ trội mỗi tuần 25 giờ. Dạy thêm ngoài trường tư 10 – 5 giờ mỗi tuần. Vừa dạy chính thức tại trường nhà nước lại dạy thêm cho trường tư, có thầy như thầy Bùi Văn Chi (dạy toán), thầy Lê Phú Thứ (dạy Anh văn), mỗi tháng thu nhập đến 40 - 50 ngàn đồng (hơn 10 lạng vàng/tháng). Do đó, sau khi tốt nghiệp chừng 2 - 3 năm, các thầy có thể mua nhà lầu, xe hơi riêng.
Ở miền Nam vào những năm 1960 - 1970, thầy giáo trung học là niềm hãnh diện của nhiều gia đình. Có con gái ai cũng thích gả cho giáo sư trung học, vừa được tiếng tốt, vừa an toàn bản thân, vừa có tiền sống cuộc sống thanh thản đầm ấm.
Trước năm 1965 ngoài việc đi học kỹ sư, bác sĩ, giáo sư, các thanh niên miền Nam sau khi đỗ tú tài đôi, có người còn đi học Trường Võ bị Quốc Gia Đà Lạt. Ở thành phố cao nguyên này, giáo sư và sĩ quan Đà Lạt là hai hình ảnh thân quen. Mỗi sáng chủ nhật, các sinh viên võ bị mặc lễ phục, các sinh viên Đại học Đà Lạt ăn diện đông đảo đi bát phố Hoà Bình. Ăn sáng ở phở Đắc Tín, phở Bằng, uống cà phê Tùng nghe nhạc lãng mạn thời thượng. Những hình ảnh thân quen đó của một thời vàng son cũ trên xứ hoa đào.
Chế độ cũ ưu đãi thầy cô giáo hơn các ngành khác của nhà nước. Các thầy giáo tiểu học bị bắt đi quân dịch 2 năm lại được trả về nhiệm sở cũ, các giáo sư dạy trung học được tiếp tục hoãn dịch cho đến năm 1968, sau biến cố Tết Mậu Thân mới bị tổng động viên. Sau 12 tháng ở trường học quân sự đa số các thầy dạy các môn quan trọng lại được biệt phái về ngành cũ. Trong khi dốc toàn lực cho chiến tranh, chế độ Thiệu vẫn cố gắng giữ thăng bằng và ưu tiên cho ngành giáo dục. Ngân sách của ngành giáo dục hàng năm vẫn được giữ trên 17% so với tổng chi phí nhà nước.
Thầy cô giáo dạy tiểu học từ trước năm 1954 đến về sau này vẫn là thành phần được trọng vọng trong xã hội. Các thầy cô giữ một chỗ đứng khiêm nhường nhưng vinh dự kể cả trong thời chiến. Cuộc sống giáo chức đạm bạc nhưng đầy đủ no ấm không thiếu trước hụt sau. Vì vậy, đa số các thầy cô giáo không phải làm thêm một nghề phụ để nuôi gia đình. Chất lượng giáo dục vẫn đủ đáp ứng tương đối cho nhu cầu tiến bộ của toàn xã hội. Thầy cô giáo và trường học là những thành trì đã cung ứng cho đất nước này biết bao nhân tài.
Ở Bạc Liêu, Cà Mau bao nhiêu lớp học trò lớn lên đã đi khắp mọi ngả đường tổ quốc. Có người đi Tây, đi Mỹ, có người làm tướng, làm quan, kỹ sư, bác sĩ, làm thợ, làm du kích, làm đặc công… nhưng không quên được các thầy đã rèn luyện cho mình từ tấm bé.
Thầy Nhạc, Đốc Lương, Đốc Chi, Đốc Hợi, Đốc Hỗ, Thầy Táo, Thầy Sáng, Thầy Quý, Thầy Cân… Cô Hương, Cô Tám, cô Lan, Cô Mót… bao nhiêu thế hệ thiếu nhi, thiếu niên đã đi qua trong đời, họ làm sao quên được, họ không thể nào quên thời kỳ mài đũng quần trên băng ghế trường xóm, trường làng, trường tỉnh… những người thầy của một thời khai sáng, khai tâm.

Thay đổi cái nhìn về một thời kỳ
Học đường của chế độ cũ đã sản sinh ra không biết bao nhiêu đứa con thân yêu sẵn sàng hy sinh theo tiếng gọi tổ quốc. Đứng bên này hay bên kia chiến tuyến, ở phía tả hay phía hữu, họ vẫn là những chàng trai dám hy sinh khi đất nước cần. Ai sai ai đúng? Điều đó thuộc về các giai tầng lãnh đạo, thuộc về các tầng lớp bên trên. Những người trai trẻ của đất nước này vẫn luôn nêu gương dũng cảm. Trang sử Việt Nam thời hiện đại, sau năm 1954, cần được nhìn lại, đánh giá lại dưới góc cạnh dân tộc và tiến bộ xã hội. Học đường bên này hay bên kia vẫn luôn sản sinh ra bao nhiêu gương tuấn kiệt, yêu đất nước và yêu dân tộc này.
Xin hãy đánh giá lại và xin hiểu cho bao nhiêu lớp người đã ngã xuống.
Chúng ta đã đắp cho những chiến sĩ ngã xuống trên chiến trường hay trong nhà tù màu cờ đỏ sao vàng. Họ là những anh hùng của chế độ hôm nay nhưng chúng ta cũng cần hiểu hàng triệu thanh niên đã ngã xuống trên đất nước này mà quá khứ đã đắp cho họ một màu vàng đó không phải là những kẻ phản bội, những tội đồ, đó là những nạn nhân lịch sử, những người vô danh đã bất đắc dĩ ngã xuống.
Lịch sử nào, thời đại nào cũng có các anh hùng và các nạn nhân vô danh. Sau 30 năm khi cuộc chiến đã chấm dứt, cái nhìn của lịch sử phải chăng đã rộng hơn, bao quát hơn và đầy niềm xúc cảm của sự đoàn kết dân tộc, của sự bao dung giữa những người Việt Nam mới sinh ra sau năm 1975.
Không còn chiến tranh nữa, các chiến tuyến cách ngăn thù hận đã lung lay và sẽ không còn nữa. Lịch sử đã đổi quá nhiều màu. Cái màu vàng xưa kia, cái màu đỏ hôm nay phải chăng sẽ trở thành một màu tươi sáng của tổ quốc của các thế hệ mai sau.
Nhớ lại năm 1975, sau ngày 30 tháng 4, những người cầm quyền chiến thắng đã ra lịnh tập trung các cấp chỉ huy của quân đội cũ đi học tập cải tạo. Còn đại bộ phận binh lính vẫn ở lại quê nhà mặc dù luôn bị phân biệt đối xử. Sự kiện này đã hé mở cho mai sau thấy rõ chiến tranh chia rẽ, xung đột là nhất thời. Đối với đất nước, đối với dân tộc lợi ích lớn nhất, lâu dài nhất vẫn là đại đoàn kết bao dung, xoá bỏ phân biệt đối xử. Tất cả mọi người Việt Nam phải có cơ hội đồng đều để sống, để nhìn về phía trước và đi lên phía trước.
Một nước Việt Nam của tất cả mọi người Việt Nam, của mọi thế hệ và tầng lớp Việt Nam, chân lý đó không bao giờ có ai thay đổi được.

Đại học Cần Thơ, sự lớn lên của vai trò đồng bằng
Thời kỳ dạy học ở Mỹ Tho, tôi có khá nhiều kỷ niệm.
Mỹ Tho thành phố đẹp của sông nước Tiền Giang với Cồn Rồng “dù mặc bụi tro bay”, với bóng dừa xỏa xuống dòng sông, với trái mận hồng đào, với ông đạo Dừa và bao nhiêu trai thanh gái lịch. Mỹ Tho 1964-1965 trường Nguyễn Đình Chiểu đẹp trang nghiêm, trường Lê Ngọc Hân với bao nhiêu tà áo trắng thơ ngây.
Mỹ Tho nơi xuất bản tờ tuần báo đầu tiên vào năm 1965, báo Tiếng Gọi Miền Tây, đấu tranh cho dân chủ tiến bộ, đấu tranh cho sự phát triển kinh tế xã hội và vươn lên của các tỉnh phía Nam.
Tuần báo Tiếng Gọi Miền Tây do bác sĩ Trần Văn Tải, một người trí thức của tỉnh Gò Công làm chủ nhiệm. Giáo sư Lý Chánh Trung làm chủ bút, tôi làm Tổng thư ký toà soạn.
Báo Tiếng Gọi Miền Tây năm 1965 đòi chính quyền Nguyễn Cao Kỳ chấm dứt kỳ thị địa phương, yêu cầu Nguyễn Văn Thiệu cho thành lập Đại học Cần Thơ. Tờ báo được sắp chữ và in tại nhà in tư nhân trên đường Lê Lợi (Mỹ Tho). Khi phát hành phải chở báo lên Sài Gòn và nhà phát hành Nam Cường mới phân tán đi khắp các nơi.
Tiếng Gọi Miền Tây xuất bản được 8 tháng với 30 số báo thì bị Nguyễn Cao Kỳ rút giấy phép. Các vấn đề được nêu ra trên tờ báo đầu tiên của đồng bằng sông Cửu Long vào thời kỳ đó, báo trước sự thay đổi và vùng dậy của miền Tây về mặt văn hóa chính trị, cho thấy sự lớn lên của trí thức đồng bằng Nam bộ qua các phong trào chính trị, đòi hỏi Mỹ và Thiệu – Kỳ phải lưu ý tới nguyện vọng và sự góp mặt của Nam bộ trong trào lưu tiến hóa của cả nước.
Trong giai đoạn này, đã nổi lên mạnh mẽ phong trào đòi hỏi chính phủ Nguyễn Văn Thiệu phải thành lập ngay Viện Đại học Cần Thơ. Sáng kiến này do nhóm kỹ sư Võ Long Triều, giáo sư Nguyễn Văn Trường, giáo sư Lý Chánh Trung khởi xướng.
Hưởng ứng mạnh mẽ sự vùng lên về giáo dục của Miền Tây, ở Cần Thơ có giáo sư Nguyễn Trung Quân - hiệu trưởng trường trung học Phan Thanh Giản, có bác sĩ Lê Văn Thuấn một trí thức lớn tuổi được nhiều người biết đến ở Tây Đô, giáo sư tiến sĩ sinh vật học Phạm Hoàng Hộ, người trí thức đầu đàn của Nam bộ tốt nghiệp tại Pháp về nước phục vụ phát triển giáo dục theo lời kêu gọi của Ngô Đình Diệm.
Giáo sư Nguyễn Trung Quân đã tổ chức cuộc hội thảo vận động dư luận các giới trí thức ở Sài Gòn và ở Lục Tỉnh lên tiếng ủng hộ thành lập Viện Đại học Cần Thơ. Cuộc hội thảo được đông đảo người có tên tuổi tại Sài Gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc tham dự.
Ở Mỹ Tho tham gia vận động nhân dân ủng hộ phong trào này có bác sĩ Trần Văn Trực, bác sĩ Trần Văn Tải, giáo sư Trần Bá Phẩm, giáo sư Lâm Văn Bé, Dương Văn Ba, bộ ba thầy giáo trẻ của trường Nguyễn Đình Chiểuậ phong trào nàyự. việc thành lập Viện Đại học Cần thơ. ần Th .
Phong trào quần chúng này được hầu hết các trường trung học ở Mỹ Tho, Bến Tre, Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Đéc, Bạc Liêu, Châu Đốc cổ vũ. Họ chuyền tay nhau ký bản kiến nghị yêu cầu chính phủ Nguyễn Văn Thiệu quyết định thành lập ngay Viện Đại học đầu tiên của Đồng bằng sông Cửu Long. Kỹ sư Võ Long Triều, người bạn chuyên môn đá gà, đánh xì phé với Nguyễn Cao Kỳ, Đặng Văn Quang lãnh nhiệm vụ làm ”lobby” với chính phủ.
Trước nguyện vọng chinh đáng của trí thức Miền Nam, Nguyễn Văn Thiệu với tư cách Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia thời bấy giờ, cũng là “một người con rể của xứ Mỹ Tho”, đã phải tức tốc ký ngay sắc lệnh thành lập Viện Đại Học Cần Thơ bổ nhiệm giáo sư Phạm Hoàng Hộ vào chức Viện Trưởng đầu tiên.
Cho đến hôm nay, khi những dòng này được viết Viện Đại học Cần Thơ đã hơn 38 tuổi.
Trường Đại học này đã đào tạo hàng trăm ngàn trí thức Miền Tây, đã trở nên một trung tâm khoa học kỹ thuật nông nghiệp lớn của đất nước và uy tín của nó đã có tầm vóc quốc tế. Đó là Viện Lúa của Việt Nam, trung tâm nghiên cứu phát triển nông nghiệp của cả nước. Hàng trăm ngàn con em của vùng châu thổ sông Cửu Long đã được trui rèn thành những bàn tay khối óc biết làm giàu cho đất nước từ mảnh đất chôn nhau cắt rún của mình. Miền Tây đã lớn lên ngang tầm với sức vóc và tiềm năng tự nhiên, với nhân lực của nó.
Có thể những giáo sư, những sinh viên của trường Đại học lớn nhất ở đồng bằng miền Nam không biết và không nhớ đến những người đã vận động và đấu tranh với chính phủ Thiệu-Kỳ để cho ra đời Trung tâm văn hóa to lớn này.
Có thể sau một cuộc cách mạng lớn và toàn diện như cuộc cách mạng 1975, người ta có xu hướng quên mất sự liên tục của quá khứ và lịch sử. Nhưng lẽ sinh tồn của tạo hóa cho thấy bất cứ điều gì trong xã hội văn minh đều có khởi đầu, bắt nguồn.
Cội nguồn của Viện Đại học Cần Thơ là sự kêu đòi phát triển của các phong trào trí thức miền Nam. Đại học Cần Thơ là hậu thân, là sự lớn lên của các trường trung học Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long Xuyên, Sa Đéc, Bạc Liêu… Các thế hệ trí thức miền Nam đã lớn lên từ cội nguồn lịch sử đó.
Cây có cội, nước có nguồn. Những người đã vận động đòi hỏi sự hiện thực của một trung tâm văn hóa, khoa học, công nghiệp của vùng đồng bằng này, hiện nay đã không còn nhiều nữa.
Một số họ đã chết đi, đã chôn vùi trong đêm đen của lịch sử, nhưng nếu có một giây phút nào tỉnh thức sẽ có một niềm vui lóe lên, nó giống như nguồn vui của Archimede ngày xưa khi người bỗng nhiên khám phá ra chân lý “Euréka” .
Chân lý bất tử, không lệ thuộc vào thời gian, chế độ, phong trào.
Xin chào Đại học Cần Thơ như chào dòng sông Mekong đã làm cho đất nước này càng ngày càng giàu hơn về trí lực, nhân lực và vật lực.

Một kỷ niệm đáng nhớ
Tôi sống ở Mỹ Tho hai năm, dạy môn triết học nhập môn cho sáu lớp đệ nhất với khoảng ba trăm học sinh. Tôi phụ trách môn Quốc văn cho lớp đệ thất và đệ lục, khoảng sáu lớp, gần ba trăm học sinh. Như vậy, thời gian sống ở Mỹ Tho trong năm 1965-1966 tôi đã tiếp xúc với gần sáu trăm thiếu niên. Có những người sau này trở thành ưu tú, nghệ sĩ quay phim truyền hình, tiến sĩ khoa học ở Pháp, thương gia ở Bỉ và cũng có rất đông người trở thành cán bộ cộng sản, sĩ quan cảnh sát cao cấp của chế độ cũ, bác sĩ, dược sĩ.
Điều gì tôi đã để lại được cho họ tôi không biết rõ, nhưng tôi biết đa số họ rất giống tôi ở chỗ hay bất mãn với những tham ô, trì trệ trước mắt và luôn khát khao thay đổi, tiến bộ.
Một lần, tôi cùng thầy Trần Bá Phẩm và em Trần Văn Quá, học sinh lớp Đệ nhất A, đại diện cho học sinh toàn trường, đã theo dõi và đuổi bắt chiếc xe Volkswagen tải nhẹ của trường Nguyễn Đình Chiểu được ông hiệu trưởng Trần Thanh Thủy dùng chở xi măng, sắt của nhà trường đem về Sài Gòn xài vào việc riêng gia đình.
Chúng tôi đã làm việc đó với tư cách giáo sư cố vấn Hiệu đoàn. Em Trần Văn Quá đã làm việc đó vì em là đại diện của học sinh toàn trường, trước đây gọi là đại diện Hiệu đoàn. Một hành động chống tham ô rất non trẻ của thầy và trò thuở đó.
Khi chiếc công xa của trường Nguyễn Đình Chiểu chạy tới bót Phú Lâm (Chợ Lớn), cảnh sát chận lại hỏi giấy tờ. Thầy trò chúng tôi đã mang sẵn theo máy hình vội vã chụp ngay cảnh chiếc xe bị xét, với dụng ý làm bằng chứng.
Không ngờ chụp hình bót cảnh sát vào thời chiến là việc làm bị cấm đoán. Thay vì có được tấm hình làm bằng chứng về sự tham ô của ông hiệu trưởng, thầy trò chúng tôi bị cảnh sát Phú Lâm bắt giữ về tội chụp hình cơ quan an ninh và nghi ngờ chúng tôi là Việt Cộng, chụp hình để chuẩn bị phá hoại (1965). Cả trò lẫn thầy bị giữ tại bót Phú Lâm hơn 4 giờ đồng hồ và suýt bị lấy luôn máy ảnh. Sau đó anh Trần Bá Phẩm nhanh trí gọi điện thoại cho đại tá Lê Quang Hiền, đổng lý văn phòng Bộ Thanh Niên. Nhờ ông Hiền can thiệp, cảnh sát bót Phú Lâm mới cho 3 thầy trò ra về. Đúng là một tai nạn không phải do rủi ro nghề nghiệp, rất khó quên.
Có lẽ thầy Phẩm, bạn tôi, năm nay đã gần 70 tuổi cũng khó quên. Còn em Trần Văn Quá bây giờ đã trên 50 tuổi, nếu còn sống ở đâu đây trên quả đất này, có lẽ cũng không thể nào quên.

Quê hương của một “Bà Lớn” - Thiệu “playboy”
Mỹ Tho còn là quê hương của bà Nguyễn Thị Mai Anh, vợ của ông Nguyễn Văn Thiệu.
Thầy Lâm Văn Bé, giáo sư sử địa, cùng được bổ nhiệm về dạy tại trường Nguyễn Đình Chiểu, một thời kỳ với tôi, là người thân cận trong gia đình bà Nguyễn Thị Mai Anh. Ba má bà Mai Anh gốc người xứ Quảng Trị. Dân Mỹ Tho quen gọi ông thân bà Mai Anh là thầy Quảng chuyên bắt mạch cho toa thuốc. Thầy Quảng vào Nam lập nghiệp và xây căn nhà thật bự (tại số 1 đường Lý Thường kiệt, kế bên Giếng nước lớn).
Thuở nhỏ, anh Lâm Văn Bé đi học tại Mỹ Tho, ở trọ nhà thầy Quảng, cho nên các chị em của bà Mai Anh thân tình với thầy Bé, xem thầy như người trong nhà. Tôi và anh Bé về dạy tại trường Nguyễn Đình Chiểu, trở nên thân nhau về nhiều mặt, coi nhau như anh em nối khố. Tôi dạy Triết và Quốc văn, thầy Bé dạy Sử Địa. Ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau rượu chè ở nhà bà Thiệu. Anh Bé và tôi được chị Năm Jacqueline mến mộ, thân tình. Chị Jacqueline là vợ sau của anh Tôn Chánh Trung, một ông chủ người gốc Hoa, giàu có nổi tiếng ở Tiền Giang. Ông Trung có căn biệt thự “to đùng” ở bên đầu nầy Giếng Nước, đường Hùng Vương, nhà chị Năm cũng là căn biệt thự lớn ở đầu bên kia đường Lý Thường Kiệt.
Hàng tuần, cứ mỗi buổi sáng chủ nhật, trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, tự mình lái xe chở vợ về thăm nhà. Thiệu đi giả dạng thường dân nhưng luôn có hàng chục xe giả dạng khác đi trước, đi sau hộ tống.
Ông Thiệu về nhà bên vợ rất vui, uống rượu whisky Mỹ, đánh cách- tê, đánh xì phé với các anh em bạn rể, có khi đánh cùng giáo sư Lâm Văn Bé. Tôi thường đến chơi, nên lần lần mặc nhiên được các bà chị của phu nhân trung tướng Thiệu xem như người thân.
Năm 1965, tướng Thiệu còn rất thanh niên, nhanh nhẹn, uống rượu rất cừ và thật là vui tính. (Khi Thiệu làm Chủ Tịch UB Lãnh đạo Quốc gia mới có 41 tuổi. Lúc lên làm Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, ông Thiệu mới 43 tuổi).
Một dáng vóc vừa phải, khỏe mạnh, một cái đầu chải tém màu xám bạc (không phải do già mà chỉ vì máu xấu), một cặp mắt tinh anh sắc bén. Từ trong con người ông Thiệu toát ra một sức sống dồi dào, năng động. Ông Thiệu đối với gia đình bên vợ vui tính, hòa đồng, khi uống rượu và đánh bài không bao giờ nói chuyện chính trị.
Ông ta là một “playboy”. Mèo chuột bồ bịch khá nhiều. Mối tình của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu với bà chủ nhà hàng Cyrnos – Vũng Tàu, một người đàn bà đẹp lẳng lơ đã từng được Tư Trời Biển rêu rao trên báo Tin Sáng trong mục Tin Vịt Nghe Qua Rồi Bỏ.
Nữ ca sĩ Kim Loan từng là người tình của Tướng Thiệu, có bầu được Thiệu gửi đi Tây Đức tránh dư luận đàm tiếu. Thiệu còn là bồ của bà chủ hãng thuốc tây Bùi Đình Nam, một tỷ phú giàu không thua kém hãng OPV của Nguyễn Cao Thăng. Căn biệt thự sang trọng ở khu An Phú có hồ bơi, có sân tennis từng là nơi hẹn hò, tình tự của vợ Nam với trung tướng Thiệu. Thiệu rất thích trượt nước bằng hors-bord trên sông Sài Gòn. Đặc công Sài Gòn hồi đó đã từng bố trí ông Võ Viết Thanh đào hầm ngay bờ sông cách căn biệt thự của Bùi Đình Nam vài trăm thước, chờ đón ám sát Nguyễn Văn Thiệu cả tuần lễ mà không có cơ hội thực hiện được. Vì trung tướng Thiệu đi du hí rất kỹ, bảo vệ dầy đặc, giờ giấc lại bất thường.

Chương 4
LÀM BÁO SÀI GÒN

Phần 1

Nghiệp làm báo
Trong đời học sinh và sinh viên của tôi, có 3 lần tập tành nghề làm báo. Lần thứ nhất vào năm 1956, lúc mới 15 tuổi, tôi được thầy dạy Việt Văn là thầy Lâm Ngọc Bình chọn làm bỉnh bút của tờ đặc san Nhành Lúa Mới, tiếng nói của học sinh trường Công giáo Bạc Liêu. Cùng lo tờ báo đầu tay trong đời này có Phạm Văn Tập dân Cà Mau, sau này là nhà văn Hoài Điệp Tử, chuyên viết feuilleton cho một số báo như báo Tia Sáng, Trắng Đen.
Cách thức làm báo học trò như sau:
- Chúng tôi viết bài, đa số là tùy bút, thơ, truyện ngắn.
- Thầy Bình chọn, tôi và anh Tập lo biên tập, sắp xếp, trình bày. Báo dày 42 trang, khổ tập học trò, bìa in hai màu.
Tôi và anh Tập, đại diện cho nhà trường đem báo lên Cần Thơ mướn in. Nơi in báo của chúng tôi là một nhà in nhỏ của Tây Đô, nằm gần cầu Tham Tướng.
Tôi còn nhớ, bài báo đầu tay của tôi được in là một bài tùy bút về “chiếc áo bà ba đen”, nói lên cảm nghĩ về các cô gái lao động, bán buôn. Hồi đó nhà trường chỉ cho chúng tôi 1.800 đồng để in 300 số báo, kể cả tiền ăn xài, tiền xe lên xuống Cần Thơ hai lần để giao bài và nhận báo. Việc sắp chữ, sửa bản vỗ, cho chạy “bon” đều do chủ nhà in làm vì lúc đó chúng tôi không biết sửa morasse vả lại chỉ ở lại nhà in vài tiếng đồng hồ.
Tờ báo được Trưởng ty Thông tin Bạc Liêu lúc đó cho phép xuất bản là một điều hãnh diện cho trường Công giáo, cho thầy Bình và cá nhân tôi .
Nguyễn Văn Năm, Trưởng Ty Thông Tin lúc đó là một thanh niên đi kháng chiến ở Khu về Thành năm 1952, cùng thời với thầy Lâm Ngọc Bình. Điều này cho thấy ngay từ năm 1953-1954, hoạt động văn hoá, giáo dục của các tỉnh thành miền Nam đã có sự xâm nhập và âm thầm lan tỏa của những cán bộ Việt Minh từng theo kháng chiến. Như trường hợp trường trung học Long Đức của bà Bùi Thị Mè thành lập ở Trà Vinh năm 1955 (bà Bùi Thị Mè và chồng là ông Ngô Tấn Nhơn hoạt động Thành đến năm 1960 lại bỏ vào rừng).
Xâm nhập về văn hóa, văn nghệ, giáo dục là xâm nhập vào trái tim, cái đầu của học sinh, thử hỏi làm sao không có các phong trào đấu tranh thành thị về sau này?
Tôi nhớ lại phía những người cộng sản đã chuẩn bị cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam ngay trước khi Hiệp định Genève được ký kết. Việc xâm nhập về văn hóa giáo dục được tiến hành ưu tiên. Năm 1953, 1954, các bài thơ kháng chiến yêu nước nổi danh của nhà thơ Tố Hữu dã đựơc truyền tụng và đem giảng dạy trong các trường trung học lớn ở Sài Gòn, ở các tỉnh, trường công cũng như trường tư. Học sinh trung học thời đó không mấy ai mà không biết bài thơ tràn đầy tình yêu nước, tràn đầy khí thế cách mạng tiến công, thắng lợi của Tố Hữu. Bài “Ta Đi Tới :”
Ta đi giữa ban ngày
Trên đường cái thong dong ta bước.
….Đường Bắc Sơn, Đinh Cả, Thái Nguyên
Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên
Đường cách mạng dài theo kháng chiến
Đến hôm nay đường xuôi về biển
Mới tinh khôi màu đất đỏ tươi
Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi…
Họ cũng thuộc lòng bài thơ ca ngợi anh bộ đội nổi tiếng của nhà thơ Chính Hữu….
.Em về cấy lúa trồng bông
Cho lúa mau nở cho bông được mùa
Trưa hè rụng lá bàng khô
Tôi đi ra trận….nghe hò bốn phương
Súng ơi súng ở với tôi mùa thu, theo tôi mùa hạ
Theo tôi diệt nốt quân thù
Tôi nhớ thương người bạn cũ
Miệng cười mắt nhắm ngàn thu…


Lần thứ nhì tôi viết báo vào năm 1959 lúc vừa đổ tú tài. Tôi lấy bút danh Dương Trần Thảo, Huỳnh Thành Tâm lấy bút danh Huỳnh Phan Anh. Hai anh em chúng tôi cộng tác với Tuần báo Mã Thượng do anh Trịnh Văn Thanh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Bài viết của tôi là bài “nhận thức thời gian trong thi ca Hàn Mặc Tử” đăng trên tuần báo Mã Thượng (khổ lớn). Bài thứ nhì là thư ngõ gởi nhóm Sáng Tạo do Huỳnh Phan Anh và tôi cùng ký tên.
Một xu hướng triết lý trong văn chương, một kiểu “ếch nằm đáy giếng” đâu thấy trời bao la. Vừa viết báo vừa đi dạy học ở quận Chợ Mới Long Xuyên (dạy trường bán công ở Chợ Mới của anh Trương Phước Đức - bạn thân của Huỳnh Thành Tâm). Huỳnh Phanh Anh dạy Pháp văn, tôi dạy Việt văn, Nguyễn Tấn Trọng dạy tóan, lý, hóa (Nguyễn Tấn Trọng hiện nay ở Mỹ. Trong chiến tranh, anh là Phi công lái F5, bị bắn rơi ở miền Đông, bị bắt làm tù binh và được trao trả năm 1973, ngay sau khi hiệp định Paris được ký kết).
Đời viết báo và đời dạy học thường gắn bó với nhau. Chúng tôi 3 thanh niên mới lớn đã biết tháo vát dùng chút ít học thức của mình để kiếm thêm tiền sinh sống. Hồi năm 1960, nhật báo rất hiếm chỉ có 4,5 tờ. Báo về văn học càng hiếm hơn. Trường trung học cũng ít. Mỗi tỉnh chỉ có một trường công lập và một, hai trường tư. Còn ở cấp huyện, lớn như huyện Chợ Mới, các nhà tư sản, trí thức hoạ hoằn mới lập ra một trung học tư thục. Giấy phép phải lên tới Sài Gòn xin. Lúc đó, đỗ được tú tài đôi đã có thể tự coi là trí thức. Ở mỗi tỉnh họa hoằn mới có vài chục tú tài. Cái chữ cái nghĩa thời đó sao mà quí giá thế. Không phải như thầy đồ Tú Xương ca cẩm “văn chương hạ giới rẻ như bèo” .
Đến lần thứ ba, tôi lại cùng với Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Ngọc Thạch (Tư Trời Biển trong báo Tin Sáng), Võ Văn Điểm viết báo ở đại học Đà Lạt. Tập san Chiều Hướng Mới, tên báo do Huỳnh Phan Anh đặt.
Sau năm 1963 Tổng thống Kennedy bị bắn chết, chiến tranh ở miền Nam Việt Nam bắt đầu sôi động. Tờ báo của chúng tôi có những suy tư trăn trở thoát ra khỏi tháp ngà văn chương. Con người phải dấn thân nhập cuộc. Không dấn thân bằng cách đi lính, thầy giáo sinh viên cũng phải dấn thân bằng những suy tư phản kháng. Báo Chiều Hướng Mới lúc đó đã nói lên những trăn trở của lớp trẻ về sự vô lý của chiến tranh.
Ba bước tập tành theo nghề báo hình như đó là giáo đầu tuồng của định mệnh.

Chinh thức vào nghề viết lách
Đầu năm 1968, tôi chính thức bước vào nghề làm báo với các bài xã luận thường xuyên đăng trên báo Tin Sáng. Chưa chịu dừng ở đó, tôi xin giấy phép xuất bản Tuần báo Đại Dân Tộc. Tôi làm chủ báo nhưng không có quan hệ với dân buôn giấy, in báo, không biết cách bọc lót với giới phát hành, toàn là những “trùm sò” có ăn chịu với Hội cựu Chiến binh, với Trung ương Tình báo. Cho nên Tuần báo là của tôi, nhưng lại do Ngô Công Đức bỏ tiền ra in, phát hành, thu lợi nhuận.
Chủ nhiệm kiêm chủ bút Dương Văn Ba ăn lương một tháng 30 ngàn đồng (lúc đó bằng 3 lạng vàng). Tuần báo Đại Dân Tộc, nhật báo Tin Sáng, nhât báo Tiếng Nói Dân Tộc (do Lý Quí Chung làm chủ nhiệm) là ba diễn đàn đối lập công khai với chính phủ Thiệu – Kỳ.
Cùng tham gia viết báo trên tuần báo Đại Dân Tộc có Nguyễn Hữu Chung, Kiều Mộng Thu, Trần Ngọc Châu, Lý Chánh Trung…. Đại Dân Tộc đi vào chiều sâu của những vấn đề thời sự chính trị, là diễn đàn chống chiến tranh, đôi khi bị coi là thân cộng, phản diện với Tuần báo Con Ong của Minh Vồ, một tiếng nói hậu thuẫn của Nguyễn Cao Kỳ và các chính trị gia chống cộng gốc Miền Bắc. Tuần báo Con Ong coi cộng sản là kẻ thù không đội trời chung, còn tuần báo Đại Dân Tộc chủ trương hoà bình hoà giải dân tộc. Chúng tôi thẳng thắn và công khai chỉ trích Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ. Chúng tôi chủ trương người Mỹ, quân đội Mỹ không nên can thiệp trực tiếp vào Việt Nam.
Báo Đại Dân Tộc vừa có những bài bình luận chính trị nghiêm túc, vừa có những bài châm biếm khó quên. Nhà thơ Cung Văn mỗi tuần có một bài “móc lò” châm biếm chính trị vừa cay vừa chua đối với chính quyền và các nhân vật gia nô thời đó. Ông Đạo Ù Ù (bút danh của ông Hồ Hữu Tường), Hai Mã Tấu (bút danh của Nguyễn Ngọc Thạch) cũng có mặt trên Đại dân Tộc. Tuần báo của tôi cũng thường bị tịch thu và luôn luôn bị nhiều đoạn “TYĐB”.
Tự ý đục bỏ là biện pháp kiểm duyệt của chính quyền đối với báo chí. Báo chí cứ tự do viết, tự do nói, tự do xuất bản. Đồng thời Nha báo chí của Bộ Thông tin cũng tự do tha hồ đục bỏ, tha hồ tịch thu. Để tránh khỏi sự bao vây của kiểm duyệt và của cảnh sát, chúng tôi thường thuê in báo ở nhiều nơi khác nhau. Có nhà in ở Gia Định, có nhà in ở Quận 1, Quận 3, có nhà in ở Chợ Lớn.
Thường thì mỗi ngày cứ vào khoảng 2-3 giờ chiều Nha Báo chí mới kiểm duyệt xong các bản in thử. Họ gạch bỏ các hàng in nguy hiểm, xoá trắng những chỗ cấm đoán và thay thế bằng dòng chữ “TYĐB”.
Các nhà in ở đường Gia Long, nhà in ở đường Võ Tánh đương nhiên phải thi hành nghiêm túc lịnh TYĐB. Chúng tôi nộp lưu chiểu các ấn bản có TYĐB. Nhưng các ấn bản nguyên xi ở Gia Định, Gò Vấp, Chợ Lớn chúng tôi đã cho in từ sớm và in “nguyên con”.
Các chủ nhà in ở Quận 5 rất “chịu chơi” cho chạy máy toàn bộ các ấn bản không thông qua kiểm duyệt. Đội quân hàng mấy trăm người phát hành sẵn sàng xông vào các nơi in báo lậu để lãnh báo đi bán rộng khắp hang cùng ngõ hẻm.
Chúng tôi in báo được nguyên con nhờ các ông chủ nhà in gan dạ. Dĩ nhiên họ có thêm lợi nhuận, còn nhà báo thì liều mạng với chính quyền. Các em bán báo nhờ sự xé rào của chủ báo và chủ nhà in có được báo hấp dẫn để bán đắt như tôm tươi. Các chú cảnh sát, công an chìm làm ngơ cho báo in lậu, phát hành lậu cũng được thêm tiền lương súp do các tay đầu nậu phát hành báo đài thọ. Cả một hệ thống phân phối báo lậu, in lậu nhưng công khai tựa vào nhau mà giành lấy sự sống, và chiến đấu. Vô cùng sôi động và khó quên thời kỳ làm báo vưà công khai vừa chui vừa lậu.
Số phận tuần báo Đại Dân Tộc mặc dù in lậu nhiều số được “nguyên con”, nhưng vẫn không khác số phận của tờ Tiếng Gọi Miền Tây ở Mỹ Tho. Tổng Trưởng Thông tin Ngô Khắc Tỉnh ký án tử cho Đại Dân Tộc sau 9 tháng hoạt động. Có điều lạ là nhật báo Tin Sáng đấu tranh chống chính phủ Thiệu-Kỳ mãnh liệt, nhưng không hề hấn gì. Cùng thời đó, nhật báo Tiếng Nói Dân Tộc của ông Lý Quý Chung đối lập nhẹ nhàng hơn, phản ảnh tiếng nói vừa mức của thành phần thứ ba, đứng giữa cũng bị đóng cửa vĩnh viễn. Nhà báo Lý Quý Chung quá ngứa nghề, có lúc phải nhận làm chủ bút nhật báo Điện Tín trong 6-7 tháng .
Câu hỏi tại sao nhật báo Tin Sáng chỉ bị tịch thu nhiều lần mà không bị ông Nguyễn Văn Thiệu buộc đình bản, có nhiều người thắc mắc. Giải đáp tạm bợ của một số dư luận: Ngô Công Đức gốc công giáo, cha từng bị cộng sản giết, lại có bà con xa gần với Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, nên Nguyễn Văn Thiệu còn nể vì. Cũng có nhiều người không tin vào ý kiến đó, họ đặt nghi ngờ xa hơn, Ngô Công Đức từ lâu đã có quan hệ với nhiều người Mỹ. Tài sản của Đức có được khi còn làm ăn ở Hậu Nghĩa do thầu cung cấp nước đá cho lính Mỹ và do thầu các quán xông hơi massage phục vụ quân đội Mỹ. Tiếng nói của Đức có thể phản ảnh một nước bài chính trị: đối lập với chế độ Thiệu, theo chủ trương của người Mỹ. Trong cuộc chơi chính trị tư sản, có thân chánh, phải có đối lập. Nếu triệt hạ báo Tin Sáng có nghĩa là huỷ bỏ toàn bộ cuộc chơi. Bàn cờ dân chủ được sắp đặt như thế, không thể đổi khác.
Ở một xứ sở lệ thuộc vào Mỹ quá nhiều, điều gì người ta cũng có thể nghi ngờ. Người ta nghi Ngô Công Đức dính với Mỹ cũng như Ngô Công Đức đã từng dính sâu với Nguyễn Cao Kỳ, với Nguyễn Thiện Nhơn, cánh tay mặt của Kỳ trong mọi cuộc ăn chơi đàng điếm.
Đại Dân Tộc hàng tuần bị đóng cửa, tôi tiếp tục viết xã luận mỗi tuần cho Tin Sáng và Thời Đại Mới do anh hai Nguyễn Kiên Giang phụ trách chủ nhiệm kiêm chủ bút. Một bài xã luận được lãnh 10.000 đồng nhuận bút, một tháng tôi viết cho Tin Sáng 5-6 bài, nhưng đối với báo Thời Đại Mới, tờ báo nghèo của anh Hai Kiên Giang tôi không nhận bút phí. Tình cảm của anh chị Hai Kiên Giang đối với các đàn em trong làng báo Sài Gòn lúc đó rất dễ thương. Đối với tôi, một ngòi bút chính trị trẻ lúc bấy giờ anh Hai Kiên Giang là tấm gương sáng trong nghề làm báo miền Nam.
Báo Thời Đại Mới không có nhiều độc giả như Tin Sáng, nhưng đó là tờ báo của một ký giả nhà nghề. Qua bao đổi thay sóng gió, hoan hô, đả đảo, Thời Đại Mới của anh Hai Kiên Giang vẫn luôn có mặt, luôn tồn tại, góp phần vào sự nghiệp làm báo nhà nghề miền Nam.
Khi tôi viết những dòng này, có lẽ anh Hai Kiên Giang đã khuất, xin coi như nén nhang tưởng niệm một đàn anh nhà nghề bất khuất, luôn lạc quan, luôn có mặt để nói lên những gì cần nói và nói được những gì mà nhà cầm quyền không đục bỏ, vẫn cứ nói theo thể cách riêng để tồn tại vì tồn tại là trên hết để làm nhân chứng lịch sử.

Tự do báo chí?
Giai đoạn 1965-1975 báo chí Sài Gòn đầy màu sắc, khá phức tạp. Có thể tạm chia làm 5 loại:
- Báo chống cộng sản: Các tờ Chính Luận, Tự Do, Sóng Thần, Tiền Tuyến.
- Báo thương mại, làm báo để làm giàu, để kiếm sống, không lập trường chính trị rõ rệt: Báo Tia Sáng của ông Nguyễn Trung Thành, Sài Gòn Mới của bà Bút Trà.
- Báo nhà nghề, chuyên đào sâu các vấn đề thời sự, chuyên môn dưới cặp mắt báo chí không phản ảnh rõ rệt đứng bên này hay bên kia: Báo Thần Chung của Nam Đình, Đuốc Nhà Nam của Trần Tấn Quốc.
- Báo đối lập gồm có báo Tiếng Nói Dân Tộc, Tin Sáng, Điện Tín, Đại Dân Tộc
- Báo được CIA Mỹ tài trợ hoặc báo của trung ương tình báo Sài Gòn như báo Trắng Đen, Chính Luận.
Có tự do báo chí hay không dưới thời Nguyễn Văn Thiệu 1965-1975?
Không có và có.
Không có: vì hàng ngày báo nào cũng bị kiểm duyệt. Phóng viên, ký giả có thể bị bắt nếu suy ra viết bài hay tung tin có lợi cho phía cộng sản.
Các ký giả vừa viết báo vừa hoạt động cho cộng sản có thể bị bắt không cần một phán quyết nào của tòa án. Thường một số nhà báo từng tham gia kháng chiến chống Pháp tiếp tục hoạt động cho cách mạng hay các phóng viên cộng sản mới vào nghề, lộ diện dễ dàng bị bắt bởi công an chìm.
Chế độ cũ kiểm duyệt và kìm kẹp báo chí thường chỉ chú trọng tới nội dung chính trị, báo có làm lợi cho cộng sản hay không. Còn về mặt văn hoá văn nghệ, xã hội hầu như họ thả lỏng. Ở những lãnh vực này báo chí được tự do muốn viết gì thì viết. Từ đó, một tiểu thuyết kích dâm hạng nặng như tiểu thuyết Chín Củi được đăng tải trong báo Tia Sáng, một tiểu thuyết khác như tiểu thuyết Cậu Chó có nhiều pha nhơ nhớp, tục tĩu vẫn được đăng trên báo Trắng Đen, vẫn ùn ùn bán chạy.
Có tự do báo chí:
- Hiểu theo nghĩa ai muốn viết gì cứ tha hồ viết. Chẳng có một rào cản nào ngoại trừ rào cản cộng sản.
- Hiểu theo nghĩa chưa có ký giả nào bị bắt bỏ tù vì dám viết bài chống hoặc phỉ báng chế độ. Các mục tiếu lâm, móc lò trên các báo tha hồ xỏ xiên, bôi đen Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ. Ví dụ Thiệu được gọi là Anh Bảy Tê Tê, Kỳ được gọi là Tướng Đá Gà Râu Kẽm. Trên báo Tin Sáng, Tư Trời Biển tha hồ tung tin vịt nghe qua rồi bỏ, nhà thơ Cung Văn tha hồ ví von chính quyền theo sở thích.
- Hình phạt nặng nhất của chế độ cũ: đóng cửa báo.
- Cũng chưa có ai bán các tờ báo lậu mà bị bắt bỏ tù.
Chế độ cũ chỉ bưng bít sự thật trên báo chí được nửa vời. Các báo hàng ngày chống chế độ vẫn tới tay đọc giả thông qua hệ thống phát hành lậu. Biện pháp nửa vời đã là ngòi nổ giựt sập uy tín chế độ cũ trong tâm lý quần chúng. Chế độ cũ có giăng lưới bao vây tự do báo chí chỉ giăng lưới một nửa. Còn một nửa kia, độc giả vẫn thấy được sự thật 100%. Báo chí của chế độ cũ đã góp phần liên tục “đánh mìn chế độ” trong dư luận.................

............................................................

Dương Văn Ba


Chân tướng kẻ đánh bom Tòa Đại sứ Mỹ

Theo Quan Làm Báo

Sau khi đánh bom Tòa Đại sứ Mỹ  Ngọc Diệp bí mật đi tu tại chùa Quang Minh Tự (Phú Nhuận)
Sau khi đánh bom Tòa Đại sứ Mỹ Ngọc Diệp bí mật đi tu tại chùa Quang Minh Tự (Phú Nhuận)

Rất nhiều ‘chiến sĩ tình báo’ lừng lẫy một thời, nay nếu gặp lại sẽ bắt gặp ở họ chỉ có những giọt nước mắt lăn dài… Người thì đang sống trong tủi nhục, nghèo đói, người may mắn hơn có chức vụ cao trong Chế độ mới, song cũng phải sống trong tâm trạng khắc khoải, phẫn uất, hối tiếc…Trường hợp Thượng Tướng Phan Trung Kiên, người đội trưởng Biệt động Sài gòn lừng lẫy năm xưa đã từng được phong tặng danh hiệu anh hùng, cuộc đời đi theo ‘cách mạng’ đã đưa ông lên được đến ‘lon’ Thượng Tướng, vậy mà ngay khi vừa về nghỉ hưu chưa được mấy tháng ông đã phải nằm bất động bởi ‘cơn nhồi máu cơ tim’ do thầy trò Nguyễn Văn Hưởng gây ra bởi đơn giản ông đã nhiều lần lớn tiếng vạch mặt chỉ tên tham nhũng, bởi ông không còn dấu nổi sự hối tiếc để rồi thốt ra miệng không phải chỉ một lần:
“Nếu biết thế này thì trước đây không đủ sức ‘làm cách mạng’….”!
Trường hợp nữ tình báo Đặng Ngọc Ánh – Một Bác sĩ nổi tiếng tốt nghiệp Sorbone – đã ‘lập thành tích’ kinh hoàng ngày 29/6/1965: Đánh sập Tòa Đại sứ Hoa Kỳ! Vậy mà số phận của bà những năm cuối đời đến chính giới truyền thông Lề Đảng hôm nay đã phải đau đớn viết:
“Cả cuộc đời hy sinh, cống hiến cho cách mạng, cuối đời bà phải sống nương tựa vào người con tật nguyền của một nữ đồng đội mà bà hứa nhận nuôi. Để có cái ăn, bà phải tự tay lao động âm thầm ở một bản làng vùng sâu của huyện Đức Trọng (tỉnh Lâm Đồng).”
Cả cuộc đời nữ bác sĩ xinh đẹp này đã hy sinh cho ‘Cách mạng’, đã chối bỏ cả người chồng chính thức của mình, rồi lừa dối một Đại sứ Mỹ lấy làm chồng chì vì để đánh sập Tòa Đại Sứ cướp luôn cuộc đời sự nghiệp của chính ông Đại sứ này…

Có lẽ cuộc đời đều có nhân quả: Từ sau ngày 30-4-1975, cuộc đời của bà Ngọc Ánh là những năm tháng dài tăm tối, tủi nhục, nghèo đói, sống lay lắt ở một vùng đồi núi….
Từ một phụ nữa xinh đẹp, tài ba, bà Ánh đã biến thành thế này đây….
Những người gặp bà đời thường đều được nghe những tiếng chặc lưỡi, những giọt nước mắt hối tiếc vì những điều mình đã làm…
Tất cả những người như họ mà Thượng Tướng Phan Trung Kiên, như bà Đặng Ngọc Ánh chỉ là vài gương mặt điển hình … Họ đều giống nhau ở một điều: Tất cả đều nhận ra mình đã bị lừa dối, đã bị lầm lạc hy sinh cho một thứ không có thật… Đã có những năm tháng họ lầm tưởng rằng mình chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng, vì lòng yêu nước…..
Để rồi sự thật phũ phàng cuộc đời họ là câu trả lời đầy đủ nhất: Họ đã gây tội ác không những đối với đồng loại mà đối với chính những người thân yêu của họ và gây tội ác đối với chính bản thân họ! Họ đã đánh đổi Hạnh phúc có thật của mình cho một chủ thuyết, cho một Đảng mà đến hôm nay đã hiện nguyên hình chính là Đảng CS: Đảng tham nhũng, độc tài, phát xít.
Họ và hàng triệu triệu người đã nằm xuống, đã hy sinh để rồi đẩy nhân dân Việt Nam vào sự thống trị của những Đồng chí CS – Những ‘tinh tú’ của Đảng – Kẻ tham nhũng, bạo tàn, vô ơn, bội nghĩa, lấy đàn áp nhân dân làm vui, cướp bóc, làm giàu qua đêm làm lẽ sống… – Đó chính là đặc trưng của một lý tưởng, một chủ thuyết mà những Thượng Tướng Phan Trung Kiên, những Bác sĩ hoàng tộc Đặng Ngọc Ánh, những cựu chiến binh Đoàn Văn Vươn cùng hàng triệu triệu người Việt Nam khác đã lầm lạc đi theo để đến cuối đời mới nhìn thấy ‘cái mặt nạ đã rơi xuống’ để lộ nguyên hình bản chất thật: MỘT ĐẢNG CS CỦA BÈ LŨ THAM NHŨNG, ĐỘC TÀI !
Hàng triệu con tim đã thổn thức với những giọt nước mắt đắng cay lăn dài… Những nước mắt cũng chẳng khiến bè lũ CS động lòng! Hãy gạt nước mắt, nuốt căm hận vào tim, Hãy cùng nhau đứng dạy để sửa sai lầm của chính mình, cùng nhau đoàn kết đánh đổ bè lũ CS! Chỉ có như vậy mới đưa Việt Nam trở thành một đất nước như nguyện ước: Một Việt Nam Dân chủ – Cộng hòa của một chế độ hòa hợp dân tộc mà mọi thành phần, mọi đảng phái được bình đẳng, mỗi con người thật sự có quyền làm người cùng tham gia xây dựng một Tổ Quốc Việt Nam giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh như Hiến Pháp 1946 đã đề ra…
Sau 68 năm nhân dân Việt Nam chỉ mong muốn được ‘lội ngược’ lại quá khứ, được hưởng quyền làm người như 67 năm về trước của bản Hiến Pháp 1946. Ước nguyện quá ư nhỏ bé, quá ư khiêm tốn và đó cũng là lý tưởng mà dân tộc đã đi theo Nguyễn Ái Quốc, vậy mà xem ra như không tưởng!!!
Nhân dân Việt Nam không thể để Đảng CS dẫn dắt cả dân tộc chúng ta đến trại tập trung khổng lồ để tự sát như vậy, hãy tự mình quyết định vận mệnh của chính mình:
HÃY CHẤM DỨT LÀM NHỮNG CON HỦI BỊ CẢ THẾ GIỚI NGUYỀN RỦA! HÃY TRỞ LẠI LÀM NGƯỜI TỰ DO SÁNH VAI CÙNG NĂM CHÂU BỐN BỂ!
Đàm Đức Đam

* Mời xem thêm những bài viết của Lề Đảng để hiểu thêm:

Nữ tình báo dòng dõi hoàng tộc xinh đẹp nhất Việt Nam
Xinh đẹp, gan dạ, bản lĩnh, thông minh, tài giỏi… bà trở thành một cán bộ tình báo chiến lược, sánh ngang với những cây đa, cây đề trong làng tình báo Việt Nam. Bà là người từng gây chấn động nước Mỹ với trận đánh xóa sổ Đại sứ quán Mỹ, Nha cảnh sát quận I (Sài Gòn) ngày 20/9/1965.
Theo bà Đặng Hoàng Ánh, chính tuổi thơ bất hạnh, thời thế loạn lạc đã dẫn lối đưa đường một thiếu nữ 11 tuổi như bà đi theo con đường cách mạng. Mong ước đền nợ nước, trả thù nhà là động lực để bà cố gắng học hỏi và trở thành một nhà tình báo xuất sắc, luồn sâu trong lòng địch, thực hiện những trận đánh cảm tử rúng động chính quyền địch.
Ký ức Hoàng tộc:
May mắn được biết đến bà, với tôi đó là một diễm phúc. Bởi xét theo đế hệ Hoàng triều thời phong kiến, bà là một Quận chúa lá ngọc cành vàng. Chị em con chú con bác với vua Bảo Đại và là em họ của giáo sư Bửu Hội (Giáo sư nổi tiếng thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học Pháp). Thời chiến, bà là một chiến sỹ tình báo cao cấp hoạt động lưỡng tuyến trên lằn ranh giữa ta và địch. Bên cạnh đó, bà cũng là bác sỹ giải phẫu nổi tiếng từng tốt nghiệp hạng xuất sắc đại học Sorbonne Pari (Pháp) thập kỷ 60, được chính quyền Sài Gòn trọng dụng và Tống Thống Ngô Đình Diệm mến mộ nhận làm con nuôi.
Thời bình trở lại, bà là người thẳng thắn, sắc sảo, dám đấu tranh với tiêu cực, được nhân dân và chính quyền cơ sở tin yêu. Điều đáng nói cuộc đời bà không bình lặng như người ta tưởng, đó là quãng đời chỉ có sóng gió và những con đường gập ghềnh, đầy góc khuất. Tôi cam đoan như thế. Trong những dòng nhật ký được bà chép tay trong suốt hơn nửa cuộc đời có vinh, nhục, ngọt, bùi, đắng, cay… Tất nhiên, còn thấm đẫm những dòng nước mắt chát chua. Cả cuộc đời hy sinh, cống hiến cho cách mạng, cuối đời bà phải sống nương tựa vào người con tật nguyền của một nữ đồng đội mà bà hứa nhận nuôi. Để có cái ăn, bà phải tự tay lao động âm thầm ở một bản làng vùng sâu của huyện Đức Trọng (tỉnh Lâm Đồng).
Chuyến xe từ TP.HCM ngược Tây Nguyên chông chênh vượt qua những con đường gập ghềnh, đèo cao, dốc thẳm. Qua điện thoại hẹn trước, giọng cụ bà tôi cần gặp thâm trầm chất Huế pha lẫn sự ngọt ngào của thanh âm Nam Bộ cứ động viên quan tâm. Tôi bồi hồi liên tưởng khi được gặp, trò chuyện thân tình với bà, con người mà cuộc đời có thể ví tựa huyền thoại. Từ ngã ba Liên Khương (thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng) rẽ trái tầm 10km thì vào xã Bình Thạnh – chốn quê yên bình mà cựu tình báo một thời đang sống quảng cuối cuộc đời.
Vừa đến nơi, cụ bà đã đứng đầu ngõ nở nụ cười đón khách. Với cặp kính trắng trễ gọng, nụ cười tươi trên gương mặt phúc hậu, vết nhăn thời gian vẫn chưa làm nhòa nét đẹp quý phái của một Quận chúa có dòng dõi Hoàng tộc. Bà bắt tay lanh lẹ và dẫn tôi vào nhà. Căn nhà nhỏ, sạch sẽ do một tay bà tạo dựng bằng chính sức lao động của mình sau giải phóng. Hiện bà ở cùng gia đình anh Đặng Anh Quân (48 tuổi), là con của một nữ đồng đội hi sinh trong tù mà bà nhận nuôi, đến nay vẫn chưa thể tìm được người thân, cũng như gốc tích.
Trong gian phòng nhỏ, trên chiếc tủ mộc đơn sơ, bà trân trọng để tấm ảnh trắng đen đã ố màu. Bên đối diện là ảnh Bác Hồ. Thấy ánh mắt tò mò của tôi, cụ bà cười hiền: “Ba tôi đấy, Trần Lệ Chất (tự Gia Khanh), đồng môn, đồng niên, đồng chí hướng với cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Bác Hồ). Ông cũng là thành viên sáng lập ra trường Dục Thanh (Phan Thiết, nơi Bác Hồ từng dạy học) và tổ chức những hoạt động yêu nước đầu thế kỷ 20. Bà Đặng Hoàng Ánh bảo, cha bà sinh năm 1862, làm quan triều đình nhà Nguyễn, thông minh, thạo nhiều ngoại ngữ nhưng có xu hướng tiến bộ, bất mãn triều đình nên bỏ áo mũ, từ quan.
Trong ảnh, ông cụ trán cao, mắt sáng ẩn sau cặp kính tròn, cổ thắt cà vạt kiểu Tây, bức ảnh chụp chân dung một trí thức hơn thế kỷ trước vẫn đẹp đến lạ. Trong trí nhớ cụ bà, vị cha già hiện lên đầy hãnh diện và tự hào: “Sinh thời người dân mến mộ thường gọi cha tôi là Lệ Chất tiên sinh. Với những hoạt động yêu nước, khi phong trào Duy tân bị Pháp đàn áp, ông phải chạy sang Bồ Đào Nha. Sau khi về nước thì ông ra Bắc rồi lấy vợ ngoài Thanh Oai (Hà Nội), sau đó làm thư ký cho Công sứ Pháp Claude Léon Lucien Garnier (Người có cổ phần trong Công ty thương mại Liên Thành hồi đầu thế kỷ 20 ở Phan Thiết – Bình Thuận). Hiện tại con cháu của các anh chị em (con của vợ đầu) của cha tôi vẫn còn ở ngoài Bắc, đến nay chúng tôi vẫn liên lạc.
Theo cách mạng:
Được Công sứ Claude Léon Lucien Garnier trọng dụng, năm 1906 cha bà vào Bình Thuận xin giấy phép tập hợp với những trí thức tư sản yêu nước lúc bấy giờ là Hồ Tá Bang, Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quý Anh, Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, Ngô Văn Nhượng thành lập Công ty Liên Thành. Công ty chuyên buôn bán nước mắm và một số mặt hàng hải sản khác, trong đó có cổ phần của viên công sứ Pháp. Rồi thành lập tiếp 2 bộ phận là: “Liên Thành Thư Xã (truyền bá sách báo, tài liệu tiến bộ từ hải ngoại) và Dục Thanhhọc hiệu (trường dạy học). Tất cả để hưởng ứng phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng tại Trung Kỳ. Nhân duyên đã đưa cha bà cưu mang người con của đồng môn Nguyễn Sinh Sắc là Nguyễn Văn Ba (sau này là Bác Hồ).
Cũng từ đây, cha bà nhận ra nguyện vọng tìm con đường cứu nước của Nguyễn Văn Ba, nhờ quen biết với Công sứ Pháp và ông Hồ Tá Bang (trí thức Duy tân) mà ông đã làm giấy chứng nhận (tựa như giấy chứng minh) cho Văn Ba. Vào tháng 5/1911 Công sứ Pháp gọi cha bà giao việc đi Pháp để ngoại giao buôn bán. Cơ hội đến, chàng thanh niên Văn Ba xin được ra nước ngoài cùng chuyến tàu. Cha bà đã đứng ra xin Công sứ Pháp làm paso xuất cảnh cho Văn Ba và được đồng ý, còn cha bà chính thức đổi họ thành Nguyễn Như Chuyên. Ngày 2/6/1911 tàu Amiral Latouche Tréville (quốc tịch Pháp) cập cảng Nhà Rồng (Sài Gòn). Đến ngày 5/6/1911, cha bà và chàng thanh niên Văn Ba lên tàu rời bến Nhà Rồng, chính thức xuất ngoại. Bà Đặng Hoàng Ánh bảo, những câu chuyện quá khứ bà đều được nghe cha mình kể lúc ông còn sinh thời. Và, chính tuổi thơ đầy bất hạnh, những tháng năm đau thương như là chất xúc tác găm tất cả vào trí nhớ, thường trực theo bà qua từng năm tháng không thể nào quên. “Đó là những câu chuyện tôi được nghe lúc cha tôi còn sống kể lại và một phần tôi đã chứng kiến, tôi đã ghi lại trung thực trong những trang nhật ký từ khi tôi là sinh viên y khoa ở Việt Nam, với mong muốn con cháu mình sau này đọc lại để biết”, bà nói.
Trong những lời trò chuyện, tôi cảm nhận được nỗi buồn khó giấu trên khuôn mặt nhẫn nhịn của bà. Như khơi vào ký ức buồn, giọng bà chùng xuống: “Rồi một ngày tai họa ập xuống, cả nhà tôi bị xử giảo hình”. Nói đến đây cổ bà nghẹn lại, khóe mắt đôi dòng lệ lại rơi, đôi mắt thâm quầng mà cuộc đời đầy sóng gió của một Quận chúa đã bao lần thầm khóc. Ngồi suy ngẫm lại cuộc đời, bà gửi trong dòng nhật ký: “Tôi chịu đựng bao cay đắng, nhiều lúc muốn buông xuôi trôi nổi theo số phận. Nhưng nhìn về quá khứ của bản thân, của ba, của má, của anh chị em… nên tôi lại gượng dậy, vượt qua”.
Câu chuyện giữa tôi và Quận chúa có lúc chững lại, đó là lúc bà nhắc lại quá khứ đau buồn. Bà Ánh đưa tôi xem chiếc vòng tay bằng đá xanh, đúng ra nó là một kỷ vật hơn là thứ đồ trang sức, bà đã cẩn trọng đeo giữ trong suốt quãng đời đã qua của mình. “Khi cả nhà tôi bị xử giảo hình, máu chảy loang lổ nền đất, mẹ tôi ngã xuống, tôi chỉ kịp lấy được chiếc vòng này. Mẹ tôi là cụ Trương Ngọc Trầm em họ của cụ Trương Gia Mô (1866-1929, từng làm quan ở Huế, một sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ 20). Đó là ngày 26 tháng Chạp, năm 1945 (Bính Tuất), chỉ còn bốn ngày nữa là Tết cổ truyền. Bọn Tôn Nhân Phủ (cơ quan quản lí nội bộ hoàng tộc thời phong kiến của triều đình) và giặc Pháp đã cấu kết với nhau giả chiếu của vua Bảo Đại xử tru di cả nhà tôi, vì cha tôi ủng hộ các phong trào cải tiến”.
Lối rẽ:
Bà bảo, bản thân may mắn được đồng chí Phạm Hùng (nhà cách mạng lừng danh từng bị Pháp hai lần tuyên án tử, người từng được cha bà cứu thoát hồi ở Mỹ Tho) cứu đưa về Sài Gòn giao gửi cho đồng chí Phạm Văn Xô (người được nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng cao quý). Bà được cưu mang, dạy dỗ và cho đi học, đó là con đường dẫn bà đến với cách mạng và trở thành một sinh viên y khoa xuất sắc, một nhà tình báo chiến lược từng làm cho bọn Mỹ – Ngụy bao phen chao đảo.
Đột nhập “Nhà trắng châu Á”:
Khoảng giữa năm 1964, mật tin tình báo cho biết, năm 1965 Mỹ sẽ tăng viện trợ vũ khí, cố vấn và binh lính vào miền Nam để thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Theo đó, chính quyền tay sai tại miền Nam sẽ ký thỏa thuận cho Mỹ mượn cảng Cam Ranh trong vòng 30 năm làm căn cứ quân sự. Đổi lại Mỹ sẽ đổ đô la vào miền Nam chống lưng cho ngụy quyền bằng các phương tiện chiến tranh hiện đại để mở rộng chiến sự ra miền Bắc.
Tình hình đó, TW chỉ đạo lực lượng biệt động Sài Gòn phải lên phương án đánh Đại sứ quán Mỹ để răn đe, bắt buộc phải có thiệt hại. Trong cuộc họp bí mật sau đó có đồng chí Bảy Vịnh (Nguyễn Vịnh, sau này là đại tướng Nguyễn Chí Thanh) cùng những đồng chí biệt động Sài thành, rất nhiều phương án được đưa ra. Trong đó đáng chú ý là phương án của T2R (Phạm Ngọc Diệp, tức bà Đặng Hoàng Ánh bây giờ) là sử dụng lực lượng nhỏ, công khai khéo léo tiếp cận, làm quen với một nhân viên cao cấp nào đó trong đại sứ quán. Khi lọt vào bên trong, điều nghiên tình hình thì cơ hội đánh thành công sẽ cao hơn.



Bà Ánh (đứng giữa) được phong dũng sỹ diệt Mỹ sau trận đánh tại sứ quán Mỹ năm 1965 và được ra Bắc gặp Bác Hồ, Bác Tôn.

Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn lúc này có những quan chức như: Đại tướng Maxwell D. Taylor phụ trách về kinh tế, tiến sỹ Kissinger phụ trách về quân sự, Tư lệnh bộ chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam, tướng Westmoland và phụ trách chiến sự, trung tướng Maxcov phụ trách chiến đấu trực tiếp và Robert Maxnamara phụ trách vũ khí chiến trường. Tuy nhiên, trong số đó Ngọc Diệp chú ý đến cái tên Maxwell D. Taylor.
Ông cố vấn Vũ Ngọc Nhạ (tình báo chiến lược được cách mạng cài cắm) từng cho biết, Taylor là người không chỉ sõi tiếng Việt cũng như văn hóa Việt. Bà ngoại Taylor là người Việt, nên ông ta cũng có cảm tình với người Việt. Hơn nữa, hiện Taylor vẫn còn cô đơn vì đã li hôn vợ, nên nếu dùng mỹ nhân kế làm quen viên đại sứ này thì không khó. Trên cơ sở đó T2 (Đặng Ngọc Diệp) phân tích, nếu tiếp cận được Taylor thì sẽ dễ bề vào Đại sứ quán Mỹ nghiên cứu tình hình và sẽ có cơ hội đặt bom bí mật để đánh. Sau hồi bỏ phiếu thì phương án của T2- Đặng Hoàng Ánh đạt số phiếu nhiều hơn.
Sau khi N.Đ.Diệm bị ám sát năm 1963, Hoàng Đức Nhã (người của cách mạng) tiếp tục về làm cố vấn trong Tổng thống phủ. Ông còn thường ra vào đại sứ quán dễ dàng như thể ở nhà mình, hơn nữa quen biết tất cả các tướng tá trong chính giới Sài Gòn cũng như các đại cứ Mỹ tại Việt Nam, trong đó có Maxwell D. Taylor. Tại cuộc gặp bí mật tại Nhà thờ Đức Bà, Ngọc Diệp nhờ Hoàng Đức Nhã giới thiệu vào dinh tổng thống làm tiếp tân, kiêm ca vũ để phục vụ trong những buổi liên hoan cho binh lính. Với uy tín từng làm bác sỹ cho mẹ Ngô Đình Diệm, lại nói tiếng Tây lưu loát, có ngoại hình, cô được gật đầu nhận ngay.
Điệp vụ hoàn hảo:
Hoàng Đức Nhã, người của Tổng thống phủ giới thiệu Ngọc Diệp với đại sứ Maxwell D. Taylor. Ngay cái nhìn đầu tiên người đàn ông từng hơn một lần vỡ hạnh phúc đã phải si mê trước nét đẹp thuần khiết và tài năng của Ngọc Diệp. Đặc biệt khi biết Ngọc Diệp là quận chúa cuối cùng của nền phong kiến Việt Nam, em họ của vua thất sủng Bảo Đại, ông ta càng thêm trân trọng và mến mộ. Từ ngày tiếp cận được Taylor, mọi thứ đều diễn ra như kịch bản đã vạch. “Ông ta hơn tôi gần 20 tuổi, đó là một người Mỹ tiến bộ, hiểu người Việt hơn cả người bản xứ, quan điểm ở Việt Nam của ông ta cũng không cực đoan như những viên tướng khác. Ông ấy cầu hôn tôi và hứa cho tôi tất cả những gì nếu tôi thích, sẵn sàng dẫn tôi sang Mỹ sống đời nhung lụa. Ông ấy tặng tôi tờ ngân phiếu giá trị 1 triệu USD và chiếc nhẫn quý để cầu hôn. Số tiền này tôi giao cho đồng chí anh Hai Phạm Văn Xô để góp vào mua vũ khí”, nữ biệt động tài sắc ngày nào nhớ lại.
Mệnh lệnh của tổ chức, của Đảng phải thực thi, không có yếu tố tình cảm được xen lẫn, lý trí luôn phải làm chủ. Trong những ngày vờ làm người tình của Maxwell Taylor, phải ăn diện, dự tiệc ở biệt thự xa hoa, bà Đặng Hoàng Ánh lúc đó phải chịu biết bao cay nghiệt từ bạn bè, đồng nghiệp là các bác sỹ. Họ cho rằng bà tham đô la nên sẵn sàng bỏ chồng, con cặp bồ với người Mỹ. Chỉ có bà, những đồng đội và lãnh đạo Bảy Vịnh mới biết. Cuộc đời làm tình báo như bà nói, đó là sự hi sinh thầm lặng, có những điều không bao giờ được nói mà chỉ được làm. “Sau này tiếng đời tôi từng lấy chồng Mỹ cũng có nguồn gốc từ sự kiện này. Trong khi đó, đây là kịch bản của tổ chức đề ra, tôi có trách nhiệm phải diễn, phải làm vợ viên đại sứ Mỹ, tạo lòng tin trong chính quyền Sài Gòn để có cơ hội đánh”, bà nói.
Rồi Ngọc Diệp vờ đồng ý lấy Maxwell D. Taylor, lễ đính hôn sẽ được tổ chức ở tòa đại sứ Mỹ vào ngày 29/5/1965, đúng ngày trọng đại chính quyền Sài Gòn ký kết với Mỹ thỏa thuận quân sự thuê bán đảo Cam Ranh. Qua thông tin từ chồng tương lai Taylor, một đại tiệc lớn sẽ được mở, dự kiến trên dưới 2.000 người, trong đó chủ yếu là tướng tá chóp bu ngụy và những viên đại sứ Mỹ. Cơ hội đến, Ngọc Diệp xin quyết định đánh vào ngày này, phương án đưa ra lợi dụng uy tín là vợ đính hôn của đại sứ Taylor, Ngọc Diệp sẽ bí mật mang thuốc nổ vào đặt trong các bình hoa trên các bàn tiệc.
Trong gian phòng dự kiến sẽ có 134 bàn, mỗi bàn dài 10 người đều có lọ hoa, tất cả thuốc nổ tổng hợp đều được Ngọc Diệp bỏ vào trước đó, dự kiến khi phát nổ nó sẽ làm lây lan sang kho đạn ở nha cảnh sát. Sáng 29/5/1965, Ngọc Diệp cùng những chiến sỹ tình báo được cài cắm trong chính quyền Sài Gòn bám sát hỗ trợ là trung tướng Đặng Văn Quang, đại tướng Đỗ Cao Trí, trung tướng Lịnh Quang Viên, tình báo Hoàng Đức Nhã, Tổng nha quận I Sài Gòn Kiều Công Bì, hai ca sỹ phản gián Ngọc Hiển và Cẩm Vân. Ngọc Diệp tay cầm 3 con gấu bông như cũ đi vào tòa đại sứ. Lễ đính hôn cùng Taylor sẽ được tổ chức trước, sau đó là lễ ký thỏa thuận Mỹ- Sài Gòn, cuối cùng là mở tiệc ăn mừng.
Lễ đính hôn cùng Taylor xong, đến lễ ký kết hoàn thành, cuối cùng là bản Tăng- gô và những ly rượu dạ tiệc. Ngọc Diệp nán lại nhảy cùng chồng, hết bản nhạc, Ngọc Diệp cùng những sỹ quan cao cấp (chiến sỹ đặc tình) nhanh chóng chào ra về. Chiếc xe vừa chạy đến Bưu điện Sài Gòn thì 3 tiếng nổ chát chúa liên tiếp vang lên. Xong, cô bí mật đến chùa Quang Minh Tự (Q. Phú Nhuận) xuống tóc đi tu. Ngày hôm sau các nhật báo Sài Gòn đều chạy những tin tức nóng trên trang nhất về vụ đánh bom táo tợn này cho biết, tòa đại sứ Mỹ và Nha cảnh sát quận I sau buối sáng đã trở thành đống gạch vụn.
Hai trận đánh cách nhau 59 ngày:
Nhiều tranh cãi đã diễn ra về vụ đánh tòa đại sứ Mỹ 1965. Trên thực tế, thời Ngô Đình Diệm tòa đại sứ Mỹ đặt gần Sân bay Tân Sơn Nhất bị đánh 3 lần, sau đó chuyển về đường Hàm Nghi bị đánh một lần, nhưng tất cả đều không gây thiệt hại. Lần thứ 5 thì đội biệt động của bà Ánh dưới sự chỉ đạo của đồng chí Phạm Văn Xô mới tiêu diệt được. Đáng chú ý là trận đánh ngày 30/3/1965 có nhiều chi tiết trùng hợp, gây nhầm lẫn với trận đánh ngày 29/5/1965.
Theo bà Đặng Hoàng Ánh, trận đánh này do đồng chí Bảy Bê (tức Nguyễn Văn Xuân, Bình Định) biệt động Thành Sài Gòn tiến hành vào 10h40’ sáng 30/3/1965, tại đường Hàm Nghi. Sau sự kiện này tòa đại sứ chuyển đến đường Mạc Đỉnh Chi, sát vách Nha cảnh sát quận I. Đến sáng 29/5/1965 thì bà Đặng Hoàng Ánh tiến hành đánh sập gần như hoàn toàn lúc10h45. “Hai sự kiện cách nhau 59 ngày, ở hai địa điểm khác nhau. Nhiều người đã nhầm lẫn, chỉ có những người trong cuộc như chúng tôi mới tường tận”, bà Ánh nói.
Kỳ Anh

https://exodusforvietnam.wordpress.com