Ông Noël không đến

Ảnh của tuankhanh
Tuấn Khanh

Mùa Giáng sinh năm nay, các bậc phụ huynh ở nhiều quốc gia nói rằng họ lo âu trước việc bọn trẻ ngày càng sớm không tin vào sự có mặt của ông già Noël, một nhân vật đã nuôi trí tưởng tượng của hàng tỷ trẻ em qua bao năm tháng. Ông Noël là nhân vật truyền kỳ vĩ đại trên thế gian này, suốt đời mang sứ mạng tạo niềm vui cho trẻ em mà không cần bất cứ một điều kiện đổi chác nào.
Một cuộc thăm dò của Yougov Poll hồi năm ngoái, cho biết trẻ em thường nhận ra sự thật đáng buồn rằng không hề có ông Noël trên đời, trễ nhất, thường từ tuổi lên 9. Thăm dò của Trung tâm nghiên cứu PEW thì còn ảm đạm hơn, nói rằng giờ đây chỉ còn có 1 trong 5 đứa trẻ (từ 8 tuổi) được hỏi là còn tin vào ông Noël. Điều buồn cười rằng phần lớn trẻ em sau 8 tuổi đểu làm bộ tin vào chuyện ông Noel để làm ba mẹ vui lòng và được nhận quà. Rất nhiều người mẹ hay người bố cũng đoán là con mình không còn tin vào chuyện có ông già Noel nữa, nhưng cả nhà cùng làm bộ như nhau, chỉ để cho vui mà thôi.
Từ nhiều năm nay, giới giáo dục và nghiên cứu tâm lý trẻ em thường khuyên rằng phụ huynh nên tìm cách nói sớm và khéo léo cho bọn trẻ biết về sự thật của chuyện ông già Noel, trễ nhất là vào lúc chúng 9 tuổi. Vì theo các nghiên cứu, đánh lừa trẻ em trong một thời gian quá lâu, đến khi chúng tự biết, sẽ có những trường hợp bị tổn thương tâm lý, ảnh hưởng đến nhiều năm sau trưởng thành.
Vậy đó, cuối cùng thì, sự thật vẫn là điều cần thiết cho một con người, dẫu sống trong sự huyễn hoặc vẫn luôn có một ánh hào quang đẹp đẽ bao phủ.

Con người vẫn luôn dễ tin vào các huyền thoại, để làm mờ đi sự tẻ nhạt hoặc khốn khó thường ngày đang vây hãm mình. Đôi khi, con người tạo nên các huyền thoại, nuôi nấng, như một cơ hội để băng bó các vết thương tinh thần. Liều thuốc giảm đau đó đôi khi để mình tự nuốt lấy, hoặc có lúc thì để một nhóm người, một quốc gia sử dụng để mê mị đám đông, chèo chống qua các cơn đau hiện thực.
Việt Nam một quốc gia Châu Á, nhưng có vẻ cũng thích sử dụng liệu pháp ông già Noel như vậy, thậm chí sử dụng không cần theo mùa.
Có thể đó là một giải pháp của một số người yêu thể thao Việt Nam. Trong những trận túc cầu quốc tế, người ta dễ dàng tìm thấy nhiều người cỗ vũ có thói quen mang theo hình của ông Võ Nguyên Giáp, ông Hồ Chí Minh… mới đây còn có cả Fidel Castro như một biểu ngữ. Những trận tranh tài thể thao đơn thuần luôn bị bóp nặn để đạt đến cực khoái bởi chủ nghĩa dân tộc và tệ sùng bái cá nhân, không khác gì những đứa trẻ luôn tin rằng hình dáng một ông Noel nào đó sẽ mang đến phép lạ đời thường. Tiếc thay, ông già Noel thì không bao giờ đến, và những người Việt như vậy, mãi mãi không thể trưởng thành – và mang vác những vết thương tâm lý suốt đời mình.

Mùa Giáng Sinh năm nay, bà Bộ trưởng Y Tế Nguyễn Thị Kim Tiến dạo quanh bệnh viện trên chiếc xe nai, có nói thêm một câu bất hủ “4 bác sĩ ngồi 1 giường có chịu được không?”. Tuyên bố này làm cho người ta nhớ đến 5 năm trước, khi đi nhìn quanh các bệnh viện, bà Tiến cũng nói như một du khách đến Việt Nam “Chưa thấy một quốc gia Đông Nam Á nào, kể cả ở châu Phi mà tình trạng các bệnh viện quá tải như tại Việt Nam”. Suốt 5 năm nay trong triều đại bạc nhược của bà, sự cùng quẫn của ngành y tế Việt Nam vẫn y nguyên, chỉ có đối mới trong các nhận định của bà Tiến như lớp trang trí xanh đỏ trên cây thông. Như một bà già Noel giả trang tệ hại, bà Tiến cũng ghé qua và mùa Giáng Sinh và ban phát những lời có cánh, cho một vài tờ báo tung hô như những đứa trẻ chưa đến tuổi tin vào sự thật.
Cũng như vậy, phó thủ tướng Vũ Đức Đam cũng cưỡi xe nai đi quanh mùa Giáng Sinh, ban cho một món quà adrenalin toàn dân, về việc một mai mỗi người dân Việt sẽ có một bác sĩ riêng. Một món quà hứa hẹn như một món nợ mà truyền đời các nhà lãnh đạo Việt Nam chắc không trả nổi, nhất là trong một thế giới đầy những khốn cùng, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chỉ xếp Việt Nam đứng ở hàng 160/190 quốc gia trên thế giới về khả năng chăm sóc sức khỏe cho người dân.

Trong hàng triệu những đứa trẻ không muốn vào sự có mặt của một ông già Noel trên đời, chắc hẳn sẽ có rất nhiều đứa trong số hơn 1 triệu 700 ngàn trẻ em Việt Nam phải cực nhọc mưu sinh bởi đói nghèo là nguyên nhân. Đó là số liệu được ông Đặng Hoa Nam, Cục trưởng Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em cho biết vào đầu mùa Giáng Sinh này, mà chỉ mới là số ước đoán vì thực tế, còn cao hơn vậy. Ông già Noel thì chỉ có thể tặng những món quà, nhưng không thể thay đổi số phận, nhất là số phận của con người sống và chết lặng lẽ ở Việt Nam, bó chiếu vác về nhà từ bệnh viện thành phố hay chìm trong cơn trong xả lũ giữa đêm khuya ở đâu đó rất xa thành thị.

Mùa Giáng sinh năm nay, tôi đọc được một câu chuyện cảm động. Một đứa trẻ 5 tuổi ở Nashville, Hoa Kỳ, bị bệnh nan y và đang chết dần, bé mơ ước được thấy ông già Noel. Một viên cựu quân nhân đã được mời đóng giả làm Santa Claus đến tặng quà cho bé. Lấy hết sức tàn, đứa bé ôm lấy ông và mở quà. "Con sẽ chết, nhưng nếu con chết, con sẽ đi đâu?". "Ở nơi con đến, sẽ có một Santa Claus tốt nhất đợi và đón con ở đó", viên cựu quân nhân trả lời. Ít phút sau, đứa bé chết trong vòng tay của ông già Noel giả trang đó.
Hóa ra, con người tạo ra những huyền thoại để làm dịu những nỗi đau của con người và nuôi những ước mơ chân thành từ trái tim của con người. Tôi đã rơi nước mắt với câu chuyện nhỏ đó, để cho hiện thực và cổ tích trộn lẫn trong trí tưởng, giữa một mùa yêu thương và hy vọng mà con người đã dịu dàng cùng nhau gìn giữ qua nhiều thế kỷ.
Và bất chợt, tôi cũng nghe văng vẳng những tuyên ngôn và hứa hẹn rất nhiều trên đất nước này, bất kể đó có là mùa Giáng sinh hay không, nhưng rồi thật dễ nhận ra, đó là những huyền thoại chưa bao giờ có hơi thở con người.
Thứ Hai, 12/12/2016

tuankhanh's blog

http://www.rfavietnam.com


Thế kỷ ánh sáng

Tuấn Khanh

Những năm tháng là sinh viên, tôi hay tò mò về việc phân chia đất nước Đại Hàn. Một bên theo Tư bản và một bên theo Cộng sản. Nhất là vào những năm 80 và 90, tôi luôn ấn tượng về phong trào sinh viên Nam Hàn xuống đường biểu tình đòi thống nhất, ủng hộ Bắc Hàn. Truyền hình đưa tin sinh viên đụng độ với cảnh sát, lập chiến lũy, bị truy bắt… là những câu chuyện khiến tôi háo hức tìm đọc rất nhiều thứ về đất nước bị chia cắt đó. Lý do tôi muốn biết, vì Đại Hàn cũng tương tự với một Việt Nam trong lịch sử.
May mắn thay, tôi lại có cơ hội bạn bè với nhiều sinh viên Nam Hàn. Trong đó có một nam sinh viên là Oh và một nữ sinh viên là Kim. Những người này hay ngạc nhiên hỏi tôi là vì sao cứ hỏi những chuyện không ai hỏi, và họ bày tỏ cũng rất chân thành suy nghĩ của mình.
Oh từng xuống đường biểu tình nhiều lần, và bị cảnh sát Nam Hàn đánh tơi tả. Anh nói là anh xuống đường không vì chính trị mà vì bạn bè mình đã đi, mình cũng phải đi. Và bị đánh thì phải đánh trả. Còn Kim thì ngồi suốt với tôi và anh Đỗ Trung Quân ở một quán nhỏ ở Binh Thạnh, nói về lý tưởng. Kim nói cô thần tượng lãnh tụ Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật, tức ông nội và cha của Kim Chính Ân, lãnh tụ Bắc Hàn hiện nay. Cô sinh viên Nam Hàn này xuống đường biểu tình, đòi thống nhất với Bắc Hàn, chống chính quyền Nam Hàn đến mức bị truy tìm, phải bỏ trốn ra nước ngoài, rồi cô đến Việt Nam vì cô nghĩ rằng Việt Nam gần và thân thuộc với Bắc Hàn.
Tôi còn nhớ mình và anh Đỗ Trung Quân im lặng nghe cô Kim ngợi ca về chủ nghĩa Cộng sản. Anh Quân cố hỏi vài câu thăm dò rồi sau đó, cả hai thoái thác không gặp lại Kim nữa. Khác với cô sinh viên Nam Hàn ấy, trong muôn vàn ảo tưởng của đời người, tin vào chủ nghĩa Cộng sản như Bắc Hàn là điều chúng tôi đã may mắn, sớm bước qua từ tuổi 20.
Nhiều năm sau, tôi có gặp lại Oh, và cũng nghe nói về cô Kim ấy. Họ vẫn ở Việt Nam vì đã có cơ sở làm ăn và quen cuộc sống ở đây. Nhưng không ai muốn nhắc về những gì của tuổi trẻ của họ khi còn ở trong đất nước. Oh thì cười xòa, nói “thôi thôi”. Còn cô Kim thì không còn nói gì về Bắc Hàn hay thống nhất nữa. Thời đại mới với truyền thông tự do khắp nơi, đủ để lan truyền về một Bắc Hàn thật sự ra sao. Và giờ đây, tôi cũng không còn thấy những cuộc biều tình đòi thống nhất của giới sinh viên cánh tả Hàn Quốc trên truyền hình nữa. Tin tức thì lại hay nói về những phong trào chuyển lương thực, đồ chơi và tin tức bằng bong bóng qua biên giới Bắc Hàn, giúp cho người dân khốn khổ ở sau đường biên của chế độ độc tài.

Tôi nhớ câu nói của Martin Luther King (1929-1968), câu nói hay làm tôi nghĩ ngợi “Chúng ta phải biết sống chung với nhau như là anh em, hoặc tiêu tan cùng nhau như những kẻ ngu muội”. (We must learn to live together as brothers or perish together as fools). Chắc là rất nhiều người Nam Hàn đã tìm mọi cách để đem sự thật đến cho thế hệ mình và sau nữa. Họ sống với tinh thần như những người anh em với nhau. Thật kiên nhẫn và đáng quý. Họ đã làm được, để thế hệ Nam Hàn hôm nay đủ nhận biết về các ảo tưởng cách mạng và những kẻ độc tài bên kia Bàn Môn Điếm, để tương lai người Nam Hàn sống với nhau mà không tàn phá nhau, không rữa nát trong ngu muội.
Nhiều thập niên trước, tôi cũng thần tượng Fidel Castro và cách mạng Cuba. Thầy dạy sử của tôi kể say mê rằng Fidel Castro đã thành huyền thoại khi tự mình đứng trước tòa bào chữa cho mình, và chế độ độc tài Batista buộc phải trả tự do cho ông. Nhưng rồi nhiều năm sau, tôi cũng tự hỏi một nền tư pháp của chế độ độc tài ấy, vì sao có thể tuyệt vời đến nhường ấy khi nhìn ra công lý để trả tự do cho Fidel.
Trong khi 47 năm cầm quyền của Fidel Castro, tòa án là vô nghĩa, hàng chục ngàn người phải lưu đày, tù ngục hoặc bỏ trốn khỏi nước. Hàng trăm người hành quyết công khai bởi các nhóm xử bắn lưu động nhưng không có cơ hội nào được tự bào chữa như Fidel Castro đã từng. Huyền thoại về công lý ở Cuba từng cứu sống Fidel, và rồi bị bóp chết bởi chính ông.

Tôi cũng muốn sống với thế hệ mình, và thế hệ mai sau như những người anh em, để chúng ta không rửa nát trong ngu muội. Vì vậy, tôi đã cố viết và nói, như có sự thúc giục không ngừng trong mình, rằng chúng ta phải tồn tại trong lẽ phải và sự thật. Chúng ta không thể rửa nát bằng sự tưởng tượng hay niềm tin bất cần lịch sử của những khổ đau mà con người đã gánh chịu.
Như một con cua phải tự lột vỏ mỉnh, hết sức đau đớn, nhưng để sống còn, tôi đã bước qua những ngày tháng thiếu niên, mệt mỏi tự truy vấn để thôi ôm ấp những giấc mơ về Stalin, Lenin hay Fidel Castro, cũng không khác gì việc tôi đã tự mình chạy ra khỏi những hội hè mang tên Lê Văn Tám, Bảy Lốp… giữa những e dè và tổn thương của người quen, bạn bè trong suốt một giai đoạn dài. Nơi tôi đến, là sự thật. Mà sự thật thì không thể lẫn lộn mơ mộng hay thần tượng những kẻ dựng nên đền đài của mình bằng sinh mạng và máu của người khác.
Nhưng vì tôi tin rằng chúng ta là anh em, là đồng bào. Và chúng ta sẽ tồn tại cùng nhau chứ không thể cùng rửa nát trong sự ngu muội. Và đôi khi, tôi biết, thật đau đớn khi phải lột bỏ những gì đã học, đã biết, đã tin để bước ra cánh cửa, nhận ra sự thật mới mẻ. Nhưng đó là cách cuối cùng để chúng ta hay con cháu chúng ta không rửa nát, không trở thành kẻ đáng thương trong thế kỷ ánh sáng.

https://nhacsituankhanh.wordpress.com

http://www.rfavietnam.com

 

Đăng ngày 16 tháng 12.2016