Chuyện vui đầu năm


Trà Lũ
 
Trời đã vào đông và một trận tuyết lớn đã mở màn. Ai cũng cho trận tuyết này đến sớm quá. Các cụ có biết dân Canada thường ao ước có tuyết vào ngày nào không? Thưa, vào đêm lễ Giáng Sinh. Năm nào đi lễ nửa đêm ở nhà thờ, khi ra về mà có tuyết bay bay thì dân ở đây sung sướng lắm vì cho là điềm hên cho cả năm. Năm nay làng tôi không ai đi lễ nửa đêm, vì sợ gặp cô Omicron bạn của Cô Vít đang dọa nạt mọi người. Nhưng làng tôi vẫn họp mặt ban ngày vì ai cũng đã chích đủ 3 mũi đề phòng.
Nơi họp làng là nhà cụ Chánh tiên chỉ. Các tin tức trao đổi lúc đầu vẫn là tin dịch mới đang bành trướng, tin Ông Mỹ ông Tàu và ông Nga đe dọa lẫn nhau, tin Đài Loan sẵn sàng nghênh chiến, tin thế giới đang bảo nhau tẩy chay Thế vận Hội Bắc Kinh 2022…Ông Từ Hòe bảo tin chiến tranh thì nghe mãi nhàm rồi, có một loại tin mà ông hằng chờ nghe mà không hề có báo nào đài nào nói tới, đó là tin sản xuất và bán vũ khí. Không một nước nào công bố mình làm ra bao nhiêu súng đạn, bán cho bao nhiêu nước, và thu nhập bao nhiêu tiền.
Các cụ để ý mà coi, không hề có nước nào nói về việc này cả, dù họ kiếm được rất rất nhiều tiền. Lý do : ai cũng hô hào hòa bình, mình cũng hô hào hòa bình, mà chả lẽ miệng hô hào mà tay thì lại sản xuất rồi bán vũ khí sao ! Nước Mỹ nước Nga nước Tàu và nhiều cường quốc khác luôn im lặng và không cho giới truyền thông đụng tới việc này bao giờ.
Thấy làng yên ắng thì ông Từ Hòe biết ngay mọi người ngấy các thứ này nên ông xin không nói về các Cô Dịch và việc bán vũ khí nữa. Ông bảo chúng ta hãy nói những chuyện khác, chuyện ở ngay trước mặt, như chuyện ly trà này. Phe các bà xưa nay vẫn mê bồ chữ Từ Hòe nên xin ông nói ngay về trà. Ông cười hà hà : Chuyện này dễ mà, vì là chuyện lịch sử nước Mỹ mà.
Thấy phe các bà tỏ ra rất muốn nghe, ông kể ngay : Ban đầu, đế quốc Anh khống chế cả miền bắc Mỹ Châu này, bắt mọi người uống trà và trà phải từ mẫu quốc Anh đem tới. Dân không chịu. Cơn giận của dân đã lên tới đỉnh vào năm 1773 khi 3 tàu chở 342 thùng trà từ bên Anh tới cảng Boston, dân chúng đã xông lên tàu và ném hết mọi thùng trà này xuống biển rồi tuyên bố : Từ nay chúng ta không thèm uống trà nữa, chúng ta sẽ uống cà phê. Và dân chúng đều hoan nghênh ý này vì cà phê đã có sẵn từ nam Mỹ.
Rồi cà phê được nhiều danh nhân cổ võ. Tổng thống Jefferson thúc dục thêm nữa : ‘Cà phê là thức uống của thế giới văn minh ! Tẩy chay trà là yêu nước !’ Từ đó cà phê đã thay thế trà. Trà chỉ còn phát triển mạnh ở Á Châu như bên Tàu và VN chẳng hạn. Tổ tiên ta đã chỉ biết uống trà, có công thức pha trà và cách thức uống trà. Về sau cà phê có mặt ở VN là do người Pháp đem tới.
Ở Mỹ này, cà phê đã xuất hiện khắp nơi. Có những câu quảng cáo về cà phê mà ai cũng nhớ, như câu của hãng cà phê Folgers : ‘ Đây chính là phần tốt đẹp nhất khi vừa thức dậy’ ( The best part of waking up ). Hay như câu của hãng Maxwell House dùng lời khen của TT Roosevelt 1907 : ‘Ngon tới giọt cuối cùng !’ ( Good to the last drop ). Rồi cà phê Espresso kiểu Ý. Rồi cà phê cái nồi ngồi trên cái cốc kiểu Pháp. Rồi cà phê Starbucks hiện nay.
Cả làng vỗ tay ca ngợi sự thông thái của bác Từ Hòe. Đợi cả làng vỗ tay xong thì anh John xin góp ý: Nhưng khi học tiếng Anh, chúng ta cũng nên để ý tới mấy chữ này :
- Cafeteria tuy có chữ café nhưng không phải là nơi bán cà phê mà là nơi ăn uống,
- coffee break là thời gian giải lao chứ không phải thời gian mọi người sẽ uống cà phê.
- "Đi uống cà phê" trong tiếng VN, không có nghĩa là đi uống cà phê thật mà là rủ nhau ra quán nước để bàn về một chuyện nào đó, uống chỉ là cái cớ…
Anh John vừa dứt lời thì Chị Ba Biên Hòa nhắc : Anh hãy kể chuyện tôn vinh phái nữ của Dì Tám trêu anh hôm qua mà anh không đối đáp được, anh nói cho làng nghe rồi xin làng giúp đi. Anh John được vợ gợi ý thì thích quá liền kể ngay : Hôm qua tôi gặp một bà Dì của vợ tôi tên là Dì Tám. Bà xưa là nhà giáo nay đã về hưu, mỗi lần chúng tôi ghé thăm thì bà thích lắm và hay trêu cái vốn tiếng Việt của tôi. Sở dĩ bà hay trêu là vì bà cứ nhớ câu chuyện năm xưa khi bà gặp tôi lần đầu. Bữa đó bà tới thăm, tôi muốn tỏ ra mình biết tiếng Việt nên đã kéo ghế rồi nói : Mời Dì chơi ngồi ! Vợ tôi mắc cở qúa, liền sửa ngay : Mời Dì ngồi chơi ! Xin lỗi Dì, nhà cháu mới học tiếng Việt nên đã nói sai nói bậy Tôi nhớ hoài chuyện mời Dì tám ‘chơi ngồi’ này.
Mới đây Dì Tám có gọi điện thoại chúc mừng Giáng Sinh.Vì Dì biết tôi chăm học tiếng Việt nên đã đố tôi tìm được bài thơ nào ca tụng đàn ông tương đương với bài thơ ca tụng đàn bà của Cụ Nguyễn Gia Thiều trong sách Cung Oán Ngâm Khúc:
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa
Hương trời đắm nguyệt say hoa
Tây thi mất vía, Hằng Nga giật mình
Nghe xong bài thơ thì tôi chắp tay chịu thua ngay vì xưa nay tôi chưa hề nghe có bài thơ nào tán dương đàn ông đẹp cả. Bà Dì thấy tôi chịu thua thì thích lắm rồi hỏi tôi trong các bài tôi đang đọc tôi thích bài nào nhất. Cái này thì dễ,tôi đáp liền : Cháu đang đọc một bài mà cháu rất thích, đó là bài bàn về cái tương đối của cuộc đời có ngay trong chữ viết. Rồi tôi đọc :
- Chữ NHẸ vẫn có dấu nặng
- Chữ VỮNG vẫn có dấu ngã
- Chữ HIỂU vẫn có dấu hỏi
- Chữ NGẮN viết dài hơn chữ ‘dài’
- Chữ TA 2 chữ thì chữ NÓ cũng 2 chữ
- Chữ YÊU 3 chữ thì chữ HẬN cũng 3 chữ
- Chữ CƯỜI 4 chữ thì chữ KHÓC cũng 4 chữ
- Chữ BẠN BÈ 5 chữ thì chữ KẺ THÙ cũng 5 chữ
- Chữ HẠNH PHÚC 8 chữ thì BI THƯƠNG cũng 8 chữ…
Rồi tôi bàn luôn sang tiếng Anh : Trong Anh ngữ cũng giống tiếng Việt Nam về mặt này, như :
- BELIEVE là tin nhưng ở giữa vẫn có chữ LIE là nói dối
- FRIEND là bạn nhưng ở phần sau vẫn có chữ END là chấm hết
- LOVER là người yêu nhưng chỉ sau chữ L có ngay chữ OVER là hết
- WIFE là người vợ nhưng ngay ở giữa là chữ IF nghĩa là có điều kiện
Dì Tám nghe tôi nói đến đây thì vỗ tay khen hay. Tôi bảo bài tôi đọc chưa xong. Bài có câu kết này : chữ viết tuy tiềm tàng nhiều nghĩa, nhưng hai chữ DAD và MOM, dù quay ngược đảo xuôi thì cha và mẹ luôn luôn là một, cha mẹ không hề thay đổi.
Dì Tám khen tôi đã được đọc một bài quá hay.
Ông Từ Hòe thấy ngưng chuyện Dì Tám thì ông nhắc : Còn chuyện tôn sùng phái nữ anh nói ở đầu chuyện thì sao? Ngoài 4 câu thơ tôn vinh phái đẹp của Cụ Nguyễn Gia Thiều ra, còn ai tôn vinh nữa không? Cả làng im lặng.
Ông ODP liền nói : Không tôn vinh thì có nhiều : Người Do Thái không hề tôn vinh, người Ấn Độ không hề. Người Tàu chẳng những không hề mà còn mỉa mai : Thập nữ viết vô, nhất nam viết hữu…

Để cho không khí lễ Giáng sinh vui, ông Từ Hòe nổi máu tếu, ông xin bàn về câu nói của người Tàu này. Ông bảo câu nói 8 chữ Hán trên đây thì ai cũng hiểu là 10 cô gái không có giá bằng 1 cậu con trai. Ông bà VN mình dư hiểu câu ấy nhưng diễn nghĩa câu ấy sống động và hay hơn nhiều. Tôi đố cả làng ông bà VN đã diễn nghĩa câu 8 chữ ấy như thế nào. Các bà đáp : Thì các cụ mình diễn nghĩa như ông vừa nói đó. Ông Từ Hòe cười hà hà rồi bảo : Ông bà mình nói còn hay hơn nhiều, còn mạnh mẽ hơn nhiều :
- 100 con gái không bằng một hòn...ái con trai !
Lời dịch này hay quá chứ, phải không các cụ? Nó làm phe các bà nín khe. Lời dịch của ông bà ta làm tôi nhớ ngay tới chuyện lời dịch câu nói của ông già dê trong chuyện Tắt Đèn của Ngô Tất Tố. Rằng đêm đó ông già dê chủ nhà mò xuống chỗ cô tớ gái nằm. Cô tớ sợ hãi nói mình đã có chồng và là phận tôi tớ, ông già dê gạt đi, ông bảo : Tắt đèn nhà ngói cũng như nhà tranh. Cái câu nói danh tiếng này đã trở thành danh ngôn và được nhiều người dịch sang Anh văn, như :
-When candles are out, all cats are grey
-All cats are grey in the dark
Nhưng câu sau đây của một em bán bar dịch cho lính Mỹ ở trong quán rượu đã được chấm giải nhất vì vừa đúng vừa bình dân sống động :
- No light, number one same same number ten
Cả làng tôi nghe xong liền phá ra cười rũ rượi..
Rồi ông Từ Hòe hỏi anh John : Anh có thấy mấy lời dịch này hay kinh khủng chưa? Thấy anh John vừa gật đầu vừa vỗ tay, ông Từ Hòe xin anh nói tiếp về những cái hay của tiếng VN mà xưa nay anh vẫn ca tụng. Ông Từ Hòe đã gõ trúng cửa. Anh John cười hả hê rồi nói ngay :
Tôi thấy tiếng VN hay từ lâu rồi, càng ngày tôi càng thấy rõ hơn, nhiều hơn. Nó bắt đầu từ ngày tôi nói sai với Dì Tám câu chơi ngồi với ngồi chơi ở trên. Tiếng Việt có nhiều điều làm tôi mê vì trong mấy tiếng nước khác mà tôi học thì không hề có như vậy. Nhiều lắm. Ví dụ nha :
- Nhiều chữ đôi thì một nửa là tiếng Việt một nửa là tiếng Hán như, : rối loạn, sợ hãi, đơn chiếc, thâm sâu, binh lính, in ấn…
-Nhiều chữ đôi đảo ngược mà vẫn giữ nguyên nghĩa : nhỏ bé=bé nhỏ, thương yêu= yêu thương, gió mưa=mưa gió, yêu dấu=dấu yêu…
- Nhiều chữ đôi mà đảo ngược thì có nghĩa khác ngay : chánh quy/quy chánh, quê nhà/nhà quê, khó chịu/chịu khó, người vợ/vợ người…
- Lại còn kiểu nói lái nữa mới hay thần kỳ : Yêu nhiều thì ốm/ôm nhiều thì yếu, Nguyễn Y Vân/ vẫn y nguyên, Chung Vô Diệm/ chim vô dụng, lộng kiếng/liệng cống…
Nói đến đây xong thì anh John ngưng rồi anh quay vào ông Từ Hòe : Xưa nay tôi toàn bị bác bắt kể chuyện về cá nhân tôi, chưa hề nghe bác kể chuyện cười nào về cá nhân bác, vậy hôm nay xin bác cho nghe một chuyện vui về bác đi, chuyện nào mà bác còn nhớ.
Ông Từ Hòe bị anh John gây chuyện bất ngờ. Nhưng không sao, ông luôn có sẵn mà. Ông liền kể : Rằng khi ông mới từ trại tỵ nạn sang Canada do nhà thờ Cha Paolo bảo trợ, ông đã đi làm ngay. Ở Canada muốn xin được việc dễ dàng thì phải có kinh nghiệm, ông thì chỉ có kinh nghiệm đánh nhau với VC, sang đây là đất nước hòa bình nên lúc đầu ông chới với. Mãi rồi ông cũng kiếm được việc vì ông có sức khỏe và vốn tiếng Anh. Các cụ có đoán được cái việc đầu tiên của ông Từ Hòe là gì không cơ?
Thưa, lạ lắm, ở VN ông chưa hề làm. Đó là cái việc lau cửa sổ phía ngoài các nhà chọc trời, người lau sẽ phải đu giây từ nóc nhà xuống từng tầng. Hôm đầu ông được một chàng da đen tổ trưởng huấn luyện. Tòa nhà cao 90 tầng. Ông kể : từ nóc nhà cao chót vót này nhìn xuống dưới thì ông thấy xe cộ và dân qua lại bé tí. Lau cửa được hai giờ thì ông xin lên đi đái. Chàng tổ trưởng da đen cười hì hì rồi nói nhỏ: Việc gì phải đi lên, anh cứ vạch quần tè thoải mái vào không trung, nước đái bay qua 90 tầng, chưa xuống tới đất thì nó đã tan vào không khí hết rồi. Hà hà. Nó nói đúng nhưng nghe kinh quá. Ngay hôm sau ông bỏ cái job này. Ai lại tè lên đầu thiên hạ bao giờ. Rồi sau đó ông xin được việc rửa chén ở nhà hàng.
Anh John và cả làng vỗ tay khen câu chuyện này. Cụ chánh lên tiếng xin ngưng chuyện ‘lau cửa kiếng’. Cụ bảo đó là những chuyện có thực của cuộc đời. Ai tỵ nạn đến đây đều cũng trải qua, cách này hay cách khác. Mong con cháu sau này biết được những cam khổ của cha ông để chúng tiến lên, lên nữa. Canada là đất vàng, không ai là không có vàng. Nói gì đâu xa, làng ta đây này, ai muốn gì thì đều có hết.
Đến đây, cụ Chánh ngưng, cụ nhấp ngụm trà rồi bàn tiếp: Có lẽ lão vừa nói quá đà về tiền bạc vì thấy dân làng ta ai cũng hạnh phúc đầy tràn. Lão lại chợt nhớ tới trang sách mới đọc, nhân dịp năm mới, lão xin chia sẻ với cả làng : bài viết về 10 thứ mà tiền bạc không mua được : Sức khỏe, Tình thương, Niềm vui, Sự chính trực, Lòng tôn trọng, Nội tâm thanh tĩnh, Đạo đức, Kiến thức, Trí tuệ, Giác ngộ tâm linh.
Cả làng ai cũng gật gù : Đúng, đúng quá.
Ông bồ chữ già ODP góp ý : Sống ở đời ai cũng đi tìm hạnh phúc. Ai cũng biết có Phật có Chúa là hạnh phúc. Tôi thấy nhiều bà con của tôi cứ nghĩ rằng chỉ đi chùa thì mới tìm ra Phật, tôi đã kể cho họ chuyện ngài Dương Phủ trong sách Cổ Học Tinh Hoa. Rằng một hôm ông Dương Phủ nghe bên đất Thục có ngài Võ Tế là đại sư nên đã bỏ cha mẹ già mà lên đường học đạo. Nửa đường ông gặp một lão tăng. Lão tăng mới bảo ông rằng gặp được Võ Tế chẳng bằng gặp được Phật.
Ông hỏi Phật ở đâu thì lão tăng trả lời : Ngươi hãy quay trở về, gặp được ai mặc cái áo sắc thế này, đi đôi dép kiểu thế này thì chính là Phật đấy. Dương Phủ nghe lời liền trở về, nhưng trên đường về thì ông không gặp một ai như thế cả. Tới nhà, đêm đã khuya, ông gõ cửa. Mẹ ông nghe tiếng ông thì mừng quá vội khoác chiếc mền và xỏ vội đôi dép ra mở cửa. Ông thấy mẹ lúc đó đúng y lời lão tăng đã tả, tức thì ông ngộ ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật, ta chẳng phải đi tìm đâu xa.
Xong chuyện thấy Phật, ông kể sang chuyện thấy Chúa. Rằng có một cụ già đêm kia mơ được đi dạo với Chúa trên bờ biển. Mọi cảnh huống trong đời đều hiện ra trước mắt cụ. Cảnh nào cụ cũng thấy có 4 dấu bàn chân ghi trên cát, 2 của cụ 2 của Chúa. Đến cảnh cuối cùng đau khổ nhất khi ông nhìn bãi cát thì ông chỉ thấy dấu hai bàn chân, ông buồn bã hỏi Chúa : Chúa hằng bảo con rằng Chúa luôn đi với con cả cuộc đời, thế mà khi nhìn lại những quá khứ đau khổ, con thấy trên bãi cát chỉ có 2 dấu chân của con, không có bàn chân của Chúa.
Vậy những lúc ấy Chúa ở đâu? Chúa liền trả lời : Những lúc bi đát nhất trong đời con thì không những Cha đi bên con mà còn cõng con trên vai, hai vết chân con thấy là vết chân của cha, hoặc cha đang bế con trong lòng, hoặc đang cõng con trên vai...

Viết đến đây tự nhiên tôi nhớ tới văn hào Anh Quốc Malcolm Muggeridge khi nhập đạo Chúa năm 1982. Ông viết trên tờ The Times of London những lời chân thành và cảm động này : Khi tôi gia nhập đạo Chúa, tôi có cảm tưởng như đã về tới quê cũ, nối lại sợi dây đã đứt, đáp lại tiếng chuông đã được dóng lên, tìm thấy được cái ghế trống đã dành cho tôi từ lâu tại bàn ăn của đại gia đình…
Những lời này làm tôi nghĩ tới GS Vũ Quốc Thúc, một nhà văn hóa lớn của VN cuối đời sống ở Paris. Cụ đã nhập đạo Chúa khi tròn 100 tuổi vàng. Cụ vừa qua đời ở Paris ngày 26/11/2021 vừa qua. Bạn bè đều nói GS Thúc cũng có một tấm lòng giống y như văn hào Muggeridge trên đây.
Năm mới, kính chúc các cụ và gia đình luôn nhìn thấy Phật trong nhà và nhìn thấy Chúa luôn luôn ở trong lòng.
TRÀ LŨ


Chuyện nhạt

Trà Lũ

Đầu thu năm nay có ngày Thứ Sáu 13, mấy bà trong làng tôi tin là ngày xui nên bảo nhau không đi chơi, không đi mua sắm trong ngày này. Người ta còn tin số 6 cũng là số xấu. Ấy thế mà hãng máy bay Phần Lan không tin, vẫn có chuyến bay mang tên 3 con số 6. Chuyến bay AL 666 ngày thứ Sáu 13 vừa qua vẫn đầy khách. Ông Phần Lan này ngon a. Tôi hỏi anh John là tại sao người da trắng cho con số 6 là xấu, thì anh cười hì hì rồi bảo:
- Chính bác đã trả lời rồi đó. Da trắng bảo số 6 là xấu, vì họ tin theo tiếng Việt Nam. Chữ Sáu đọc lên nghe mài mại như chữ Xấu mà.
Các cụ đã thấy cái anh bạn da trắng này láu cá chưa! Xin kể thêm chuyện về cái anh John vui tính này. Tuần qua, anh và vợ là Chị Ba Biên Hòa đi chợ mua thức ăn. Anh chị vào một hiệu thực phẩm của người Phi Luật Tân, mua luôn một lúc 10 gói rau đay đông lạnh. Từ khi anh chị kết thân với bọn tôi thì anh chị mê luôn món canh rau đay ăn với cà chấm mắm tôm của phe Bắc Kỳ trong làng. Xưa kia, anh da trắng này đâu biết gì rau đay, chị Ba người Nam đâu biết gì rau đay, thế mà cả hai anh chị bây giờ đã lây máu Bắc Kỳ, nay đều mê món Bắc Kỳ này như điên.
Sang Canada này rồi tôi mới biết dân Phi Luật Tân cũng ăn rau đay như mình, nhưng cách nấu khác nhau. Chợ Phi Luật Tân đầy rau đay. Anh kể cho tôi nghe rằng khi Chị Ba đứng trả tiền thì thấy mấy người bán hàng Phi Luật Tân cứ nhìn anh chị rồi bấm nhau mà cười tủm tỉm. Anh chị không hiểu tại sao. Khi về tới nhà thì anh gọi điện thoại hỏi một người Phi Luật Tân bạn của gia đình về việc đi mua rau đay bị người bán hàng cười tủm tỉm một cách bí mật. Anh bạn này phá ra cười rồi trả lời ngay: Theo quan niệm về ăn uống của dân Phi Luật Tân thì rau đay là rau kích dục mạnh nhất. Chèng đéc ơi, vậy sao? Đây là lần đầu tiên tôi mới nghe sự lạ này. Các cụ độc giả có biết chuyện này chưa? Hóa ra ông bà tôi ngày xưa ở quê nhà, quanh năm chỉ rau đay với tương cà nên mới đông con đông cháu vậy sao? Họ cười anh chị John là phải, ăn một gói đã đủ lên mây, đây anh chị mua luôn một lúc 10 gói!

Cũng đầu tháng Chín với ngày Thứ Sáu 13 này, ở Quebec đang có một quả bom sắp nổ lớn. Đó là quả bom về tôn giáo và văn hóa. Lâu nay người da trắng ở đây khi trông thấy mấy bà Hồi Giáo quấn khăn che đầu che mặt thì họ ngứa mắt lắm. Ngày xưa, họ đã ngứa mắt với mấy ông Sikh quấn khăn trên đầu, nhưng không ngứa nhiều bằng khi thấy mấy bà mấy cô Hồi Giáo.
Chính quyền tỉnh bang Quebec đang làm luật để ngăn cấm các công chức không được ăn bận theo lối đó. Vừa đây lại có thống kê cho biết 1/3 dân Quebec cũng muốn cấm luôn nhân viên tư chức gốc Hồi Giáo che đầu che mặt. Nhóm Hồi Giáo đang làm ầm lên việc này.
Họ dự định tổ chức 2 ngày hội thảo ở Palais des Congrès ở Montreal vào đầu tháng 9 để bàn về tự do tôn giáo, nhưng họ đã phải bỏ ý định này vì chính quyền ở đây không cho phép. Lý do là vì hội nghị sẽ có 4 diễn giả Hồi giáo từ Paris tới. Đây là 4 giáo sĩ cực đoan, họ mà tới đây thì họ sẽ mang lửa đến. Chính quyền Quebec đang thảo một đạo luật mang tên ‘Charter of Values’, Hiến Chương Các Giá Trị,…
Anh John bình luận: Chúng ta phải có can đảm nói lên một sự thật như Tổng thống Vladimir Putin của Nga đã nói trước Quốc hội Nga ngày 4 tháng 2 đầu năm nay. Bài diễn văn này rất ngắn, nhưng cô đọng, nói hết sự thực và nhắm thẳng vào nhóm di dân thiểu số.
Bài diễn văn này đã được các dân biểu Nga đứng lên vỗ tay lâu 5 phút, như vậy có nghĩa là dân Nga tán thành lập trường của Putin.
Ông nói thế này: Nước Nga là của người Nga. Bất cứ nhóm di dân thiểu số nào đến đây cũng phải sống như người Nga, tôn trọng luật pháp và văn hóa của người Nga.
Nhóm nào muốn sống theo luật Sharia của Hồi Giáo thì hãy đi chỗ khác. Nhóm thiểu số này cần nước Nga chứ nước Nga không hề cần họ.
Phong tục tập quán nước Nga không thể thỏa hiệp với phong tục tập quán của nhóm thiểu số. Xin các nhà làm luật nhớ kỹ điều này.
Họ không phải là người Nga.
Cả quốc hội Nga đã đứng lên vỗ tay.
Hình như trước đây Thủ tướng Úc Đại Lợi hay Tân Tây Lan cũng đã nói y như vậy: Xin mời mấy mợ trùm khăn bịt mặt đi chỗ khác!
Ai cũng mong một bài diễn văn như thế ở Quebec.

Ngay sau đó, một nguyện đường Hồi giáo ở Chicoutimi tại đây đã bị xịt máu heo và một bảng chữ đã được viết lên tường: Tín đồ Hồi Giáo nên đồng hóa hoặc hồi hương.
Đó là tin lửa văn hóa đang cháy đỏ rực ở bầu trời Quebec miền đông.
Còn miền tây Canada cũng có màu đỏ rực nhưng không phải trên trời mà đỏ rực dưới nước. Các cụ phương xa đọc đến đây chắc không thể đoán được việc đỏ rực này đâu.
Để tôi xin thưa ngay: Đó là màu đỏ của gần 8 triệu con cá hồi. Các cụ biết những đặc điểm của cá hồi chứ. Tôi thích cái tên ‘Hồi’ này quá.
Hồi đây nghĩa là trở về, là hồi hương sinh quán. Con cá hồi được sinh ra trong miền nước ngọt, sống và lớn lên trong miền nước ngọt một năm.
Khi tới tuổi dậy thì hai tuổi, con cá bỏ miền nước ngọt trong sông mà bơi ra biển, sống trong nước mặn.
Con cá trưởng thành trong nước mặn, yêu nhau trong nước mặn, mang bầu trong nước mặn. Sau ba năm vùng vẫy trong đại dương nước mặn thì đàn cá tự quay về sinh quán nơi chúng đã sinh ra, chúng từ miền nước mặn lại trở về miền nước ngọt. Con cá cái thì vùng vẫy vượt dòng sông, vượt mọi thác ghềnh, tới đầu dòng sông, để đẻ trứng. Đẻ xong thì cá mẹ hết sức, trút hơi thở cuối cùng…
Việc cá hồi từ biển bơi vào đang diễn ra tại con sông Adams thuộc tỉnh bang British Columbia miền tây Canada, và được xem là một cuộc hồi hương lớn nhất trong 100 năm nay. Cá đẻ trứng ở đầu nguồn vào tháng 10 hằng năm.
Mọi con cá hồi đều nhớ mùi của dòng sông sinh quán. Chúng định hướng di chuyển bằng mùi. Con cá tìm ra lộ trình trở về một cách dễ dàng, không bao giờ đi lạc. Khi vào tới vùng nước ngọt thì cá thôi ăn và từ màu trắng chuyển sang màu đỏ sáng. Cả một khúc sông đỏ rực là thế.
Cá hồi có khả năng bơi ngược dòng sông, vượt qua các dòng nước chảy xiết, từ đại dương vào tới sông Adams là một lộ trình dài hơn 500 cây số. Các con cá cái nhất định bơi cho tới cuối dòng là nơi chúng đã sinh ra rồi mới đẻ trứng, rồi kiệt sức mà nằm xuống.
Theo dự kiến của Bộ Ngư Nghiệp Canada thì trong tháng 10 năm nay sẽ có chừng 8 triệu con cá hồi hồi hương, trong số này phân nửa là cá cái sẽ đẻ trứng. Lượng cá hồi hương năm nay được dự báo là nhiều gấp hai lần số thường lệ hằng năm.
Du khách có thể đến ngắm đoàn cá hồi vĩ đại này tại công viên Roderick Haig-Brown ngay bên bờ sông Adams. Các cụ phương xa nghĩ sao? Cụ ngắm hoa anh đào trên mặt đất, cụ ngắm đàn di điểu trên trời, nay cụ có muốn ngắm đoàn cá biển dưới nước không?
Nghe tôi hỏi câu này, không biết các cụ phương xa nghĩ sao, chứ ông ODP trong làng tôi thì cười ha ha rồi nói tướng lên: Các cụ Việt Nam làm mắm ở Phan Thiết ơi, mời các cụ đến gặp tôi ngay. Trời cho chúng ta một núi cá để làm nước mắm, tại sao chúng ta lại thờ ơ là làm sao?
Ta chả cần phải ra khơi bắt cá gì cả. Chúng đẻ trứng xong, kiệt sức, nằm lăn ra ngay bờ sông, ta chỉ việc lấy rổ xúc đem vào ướp muối là có nước mắm ngay. Mọi thứ đều dễ, đều nhẹ, đều trong tầm tay.
Ông ODP nói xong rồi nhờ tôi viết lời kêu gọi gửi bạn bốn phương.
Ông bảo tôi phải giúp tối đa và nói cho to tiếng chứ hồi mùa hè năm ngoái ông có lên tiếng mời gọi con cháu Cụ Võ Văn Vân ở Saigon mà chả thấy ai đáp ứng gì cả. Các cụ còn nhớ việc này không?

Canada mỗi năm cho phép giết mấy triệu con hải cẩu ở Bắc Cực để bảo vệ ngư nghiệp. Dân thương mại đã giết hải cẩu và chỉ lấy bộ da để xuất cảng. Da hải cẩu rất có giá trong giới thời trang Âu Châu. Họ chỉ lấy bộ da mà thôi còn các thứ khác họ đều vất đi hết. Trong các thứ vất đi này thì ông ODP tiếc nhất một thứ quý giá là quả thận hải cẩu.
Cụ Võ Văn Vân ngày xưa đã chế ra một dược phẩm nổi tiếng ‘Tam Tinh Hải Cẩu Bổ Thận Hoàn’, một dược liệu tương đương với xuân dược Viagra ngày nay. Ông ODP bảo ngày xưa ở Saigon làm sao mà cụ Võ Văn Vân có được quả thận của hải cẩu, nếu có thì may lắm là có một vài miếng nhỏ.
Bây giờ hằng năm Canada vất đi cả một núi thận tam tinh!
Vậy tôi xin trình các cụ: Làng tôi đang thành lập công ty chế tạo thuốc Tam Tinh Hải Cẩu và nhà máy chế biến nước mắm Cá Hồi. Cụ nào giàu tiền giàu sáng kiến và giàu sức khỏe xin liên lạc ngay với ông ODP là tổng giám đốc hai đại công ty này nha. Kho vàng đang nằm trong núi cá hồi, núi hải cẩu, hoàn toàn miễn phí, tại sao ta không lấy?

Trên đây là các tin nổi cộm ở Montreal miền đông và British Columbia miền tây Canada, còn miền trung là Toronto này thì sao? Thưa, tháng Chín vừa qua là tháng văn hóa, dân làng tôi đã đi xem hội chợ của các sắc dân thiểu số mệt nghỉ. Không có ngày cuối tuần nào mà không có hội chợ. Gần nhà tôi nhất, giữa tháng vừa qua, là hội chợ của dân Ukraine, một nước Đông Âu nằm trong khối Nga Xô ngày xưa. Họ có mặt ở đây rất đông. Đa số là dân cũng chạy trốn CS như người Việt mình. Hai ngày cuối tuần họ đã chiếm một đoạn đường quan trọng nhất để diễn hành, để trình diễn văn nghệ, để bày các sản phẩm.

Riêng người Việt Nam mình thì cũng có nhiều sinh hoạt văn nghệ, và nổi bật nhất là buổi ra mắt sách của thi sĩ Cung Trầm Tưởng. Các cụ biết hai bài ca nổi tiếng ‘Lên Xe tiễn em đi’ và ‘Mùa Thu Paris’ của nhạc sĩ Phạm Duy chứ? Lời nhạc là lời thơ Cung Trầm Tưởng đó. Buổi ra mắt sách do Hội Y Sĩ Việt Nam ở Toronto đỡ đầu, BS Nguyễn Duy Sản làm trưởng ban tổ chức với sự góp sức của nhà văn hào sảng Tôn Kàn.
Ông thi sĩ Cung Trầm Tưởng, trên 80 tuổi vàng, đầu tóc đã bạc phơ, nhưng sắc người còn hồng hào khỏe mạnh, tiếng nói còn rổn rảng như tiếng chuông. Ông nói chuyện rất có duyên. Hội trường có hơn 200 chỗ ngồi mà dân ta ngồi đầy. Bao nhiêu sách ông đem theo đều bán hết.
Trong buổi ra mắt có mục cho độc giả lên nói chuyện với tác giả. Một cụ ông tóc bạc đã lên phát biểu đòi nợ. Ông làm cả hội trường cười. Ông bảo ngày xưa, hồi đầu thập niên 1960 ở Saigon, tối thứ Bảy nào ông cũng phải đi nghe nhạc ở quán Anh Vũ đường Bùi Viện. Ông đến không phải để nghe ca sĩ Thái Thanh hay Thanh Thúy hát mà để nghe Lệ Thanh hát.
Cô ca sĩ trẻ Lệ Thanh hát hai bài ‘Mùa Thu Paris’ và ‘Tiễn Em’ hay vô cùng. Tiếng hát của cô đã làm say đắm nhiều con tim. Vì lời bài hát là lời thơ của Cung Trầm Tưởng. Ông Tưởng đã vẽ ra một công viên Lục Xâm Bảo đẹp quá. Qua lời thơ, qua tiếng hát Lệ Thanh, ông độc giả này đã nghĩ rằng công viên này đẹp vô cùng, cho nên mấy năm sau ông đi du học ở London, từ London ông đã bay sang Paris chỉ để xem công viên Lục Xâm Bảo.
Tới xem xong thì ông thất vọng hoàn toàn, vì nào công viên này có gì đẹp đâu, ngoài mấy ghế đá vá mấy gốc cây già.
Ông độc giả này mới sáng mắt ra: Công viên này đẹp thơ mộng vì ông thi sĩ có người yêu ‘em mắt nâu, tóc vàng sợi nhỏ’ bên cạnh. Ông cho rằng mình đã bị thi sĩ Cung Trầm Tưởng đánh lừa, nên đã mất tiêu 200 đô la tiền xe, nên buổi này ông gặp được thi sĩ thì đòi bồi thường…

Lời thơ Cung Trầm Tưởng và dòng nhạc Phạm Duy có ma lực, đã hút hồn biết bao người. Phe liền ông trong làng chúng tôi đã mang chuyện thơ chuyện nhạc ra bàn luận suốt một buổi sáng Thứ Bảy tuần qua.
Ông ODP bảo nếu không có cà phê thì chắc chúng ta không có nhiều hứng nói lâu như vậy. Thế là từ đề tài thơ Cung Trầm Tưởng chúng tôi đã bàn sang chuyện cà phê. Bồ chữ ODP lại thao thao. Ông bảo hồi 1954 khi mới di cư vào Nam, nghệ thuật uống cà phê của ông đâu đã lên cao như bây giờ.
Anh H.O. thời đó còn con nít, chưa biết gì về cà phê Saigon nên xin ông kể cho nghe. Ông ODP kể ngay. Rằng cà phê thời đó ở Saigon dở ẹc, chưa có ai biết khai thác ngành cà phê cả. Lúc đó, cà phê là món nước uống như nước trà. Hoặc trà hoặc cà phê. Hễ ăn uống là ra tiệm hủ tíu, với bánh bao, với há cảo, với xíu mại. Hồi đó là thời huy hoàng của các vua A Coóng, vua A Hoành…
Các tiệm hủ tíu cũng là các tiệm bán cà phê. Thời 1954 Saigon chưa biết đến cà phê phin. Lúc đó là cà phê bít tất. Sở dĩ gọi là cà phê bít tất vì các chú Tàu dùng cái túi vải đổ cà phê vào rồi cho vào cái siêu nước sôi. Các chú quấy một chập thì có cà phê mang ra cho khách. Đó là nước thứ nhất. Sau đó đến nước thứ hai. Cái túi cà phê nhúng đi nhúng lại trông y như cái bít tất.
Hồi 1954, dân Bắc Kỳ di cư thấy mấy ông Nam Kỳ uống cà phê thì tròn xoe cả mắt: các ông ngồi ghế kiểu nước lụt, chân dưới chân trên. Cà phê sau khi khuấy nhẹ cho tan đường thì được đổ ra cái đĩa phía dưới. Đổ ra nhưng không uống ngay, các ông còn khề khà vấn thuốc hút, phải một hơi thuốc đã rồi mới bưng cái đĩa lên nhâm nhi. Vừa uống vừa bàn chuyện đua ngựa, chuyện tuồng Tàu, chuyện số đề số đuôi, uống cà phê như thế mới là người sành điệu.
Hồi đó quán hủ tíu có khắp nơi, và hầu như có một mẫu chung: phía trước hiệu bao giờ cũng là một xe hủ tíu khói nghi ngút. Xe làm bằng gỗ, thiết kế hầu như giống nhau. Phía trên là những tấm kiếng vẽ hình các nhân vật trong Tam Quốc Chí, Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long… phía dưới mới là những thùng nước lèo, nước sôi, khói lên nghi ngút.
Phía bên trong cái xe này mới là những cái bàn, những cái ghế đẩu. Trên bàn bao giờ cũng bày sẵn bánh bao, bánh tiêu, dầu cháo quảy, xíu mại.
Mãi về sau, đầu thập niên 1960 cà phê phin (filtre) mới xuất hiện. Nó bắt đầu từ Nhà Hàng Kim Sơn ở góc đường Lê Lợi và Nguyễn Trung Trực. Nhà hàng này đã khai sáng ra việc bày bàn ghế ngoài hiên để khách hàng vừa uống cà phê vừa ngắm thiên hạ qua lại.
Rồi cà phê phin lần lượt xuất hiện ở nhà hàng La Pagode, Continental, Givral, Brodard… Rồi từ uống cà phê đi thêm bước nữa là nghe nhạc, từ nhạc đĩa tiến lên nhạc sống, và quán cà phê Anh Vũ trên đường Bùi Viện ra đời, rồi Jo Marcel trên đường Hai Bà Trưng, rồi Đêm Màu Hồng trên đường Tự Do… Vừa uống cà phê vừa nghe nhạc sống.
Các cụ đã thấy ông ODP có một bộ nhớ đáng kinh ngạc chưa. Hỏi cái gì ông cũng biết. Càng việc ngày xưa ông càng nhớ. Anh John nghe ông kể xong thì thấy hình ảnh tách cà phê ở Việt Nam hồi xưa thơ mộng và ngon quá. Ông cứ tiếc là hồi đó mà được quen ông, rồi được theo ông đi uống cà phê, nhất là theo ông đi quán Anh Vũ vừa uống cà phê vừa nghe Lệ Thanh hát thì thật là tuyệt vời.

Trên đây là các chuyện văn chương chữ nghĩa mà các nhà quân tử chúng tôi bàn ở quán cà phê vào sáng Thứ Bảy. Vì câu chuyện hấp dẫn nên các nhà quân tử đã miên man bàn luận kéo dài đến quá trưa. Thế là chúng tôi ăn trưa luôn ở đây. Sau đó chúng tôi kéo về nhà cụ Chánh để họp làng.
Chúng tôi quên khuấy bữa nay là lễ Tết Trung Thu. Phe các bà tíu tít làm cơm buổi chiều. Cơm xong là phần uống trà và ăn bánh trung thu. Mọi năm thì cụ Chánh mua bánh ở phố Tàu, nhưng năm nay, đọc tin trên báo thấy anh Tàu bây giờ làm bánh tầm bậy, toàn chất độc, nên cụ Chánh đề nghị các bà làm mấy món ăn dân tộc, chè đậu xanh, chè đậu đen với các loại xôi.
Không ngờ cỗ xem trăng mà sang trọng, đầy màu sắc dân tộc và ngon đến thế.
Anh John định mang câu chuyện về cà phê ra bàn tiếp thì cụ B.95 lên tiếng trước. Cụ bảo cả tháng nay chờ mong tiếng cười của anh John. Cụ bảo cụ đã được nghe nhiều chuyện cười Anh Pháp Mỹ, mà chưa hề được nghe chuyện cười từ phía nước Nga.
Cụ bảo chuyện cười cơ, chứ khi còn ở Việt Nam thì cụ đã nghe và bị bắt buộc phải nghe bao nhiêu thứ liên hệ tới Nga Xô, như chuyện Xuân Diệu và Tố Hữu nhận cụ Xít Ta Lin là ông nội, như chuyện Nga Xô lên mặt trăng trước Mỹ… Cụ nghe đầy lỗ tai rồi.
Cái anh John này cũng chả thua gì ông ODP bao nhiêu, cũng là một thứ bồ chữ. Anh bèn mang cái máy iPad gì đó ra bấm bấm mấy cái rồi nói ngay: Cháu mới đọc được một bài viết rất hay đăng trên tờ báo uy tín bên Anh, đó là báo The Times, nhân ngày kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười bên Nga. Bài báo mang tên: ‘Mười Chuyện Tiếu Lâm hay nhất thời Liên Xô’.
Đây là chuyện số 1:
- Ba công nhân bị bắt vào nhà tù. Họ hỏi nhau tại sao phải tù. Anh thứ nhất nói: Vì ngày nào tôi cũng đi muộn 10 phút nên tôi bị buộc tội phá hoại. Anh thứ hai nói: Tôi thì trái lại, ngày nào tôi cũng đi sớm 10 phút nên bị buộc tội gián điệp. Anh thứ ba nói: Ngày nào tôi cũng đến sở đúng giờ, tôi bị buộc tội xài đồng hồ ngoại.
Đọc đến đây xong thì anh John tuyên bố hết chuyện thứ nhất. Cả làng ngơ ngác: Cái gì vầy nè? Đây là chuyện được chấm giải hay nhất bên Nga sao?
Cụ B.95 giơ tay can cả làng, xin cứ để anh John đọc tiếp chuyện thứ hai.
Anh liền đọc tiếp chuyện được giải hai.
…Rằng có bữa kia một anh mật vụ KGB vào một công viên đi tuần. Anh thấy một cụ già đang đọc sách. Anh hỏi cụ đang đọc sách gì, cụ già trả lời cụ đang đọc sách dạy tiếng Do Thái. Anh mật vụ hỏi tại sao cụ đang ở Nga mà lại học tiếng Do Thái, cụ trả lời:
- Để sau khi chết, tôi lên thiên đàng thì tôi có thể nói chuyện với tổ phụ Abraham và Moses, hai tổ phụ là người Do Thái nên tôi phải biết tiếng Do Thái.
- Anh mật vụ bảo: Lỡ cụ không được lên thiên đàng thì sao?
- Nếu tôi không được lên thiên đàng mà phải xuống hỏa ngục thì tôi không cần học tiếng Nga vì ở đó có rất nhiều lãnh tụ Liên Xô.
Rồi anh John tuyên bố hết chuyện tiếu lâm thứ hai của Nga.
Cả làng tôi nghe xong thì không hề cười hay vỗ tay vì không ai thấy chuyện hay ở chỗ nào.
Chính cụ B.95 cũng thấy chán mấy chuyện cười này nên đành xin ngưng chuyện Nga. Cụ bảo anh John hãy kể cho cụ nghe chuyện tiếu lâm nào mà anh cho là hay nhất.
Anh bèn nói:  Cháu luôn luôn đi tìm chuyện tiếu lâm hay nhất trên thế giới, mà cho tới hôm nay cháu chưa thấy chuyện nước nào hay như chuyện Việt Nam. Nhiều chuyện lắm. Không phải chuyện tiếu lâm bây giờ mới hay mà chuyện tiếu lâm Việt Nam ngày xưa cũng đã hay quá sức.
Theo văn học sử thì người Việt Nam đầu tiên phổ biến chuyện tiếu lâm bằng chữ quốc ngữ là Cụ Trương Vĩnh Ký với cuốn ‘Chuyện Khôi Hài’ xuất bản năm 1882 ở Saigon. Người thứ hai là Cụ Phạm Duy Tốn với cuốn ‘Tiếu Lâm An Nam’ xuất bản năm 1924 ở Hà Nội. Cụ Phạm Duy Tốn là bố của nhạc sĩ Phạm Duy. Trong tập này cháu thấy chuyện ‘Đi xin lửa’ là hay nhất. Cụ Tốn viết thế này:
Có một ông già đã ngoài 70. Một trưa hè kia ông đang nằm võng ngủ thì có cô con gái hàng xóm trạc 18 qua xin lửa. Ông bảo cô:
- Lửa ở bếp, cứ lại thổi lấy.
Chẳng may bếp nguội, thổi mãi không được, chị phải chổng mông, ghé mồm, lấy hơi, phồng má, thổi một cái rõ mạnh. Không ngờ vãi ra một cái ‘bủm’. Ông lão giật mình, ngồi nhỏm dậy, nhìn cô gái rồi nói:
- Thôi! Thế là chị làm bạt vía ông Thổ Công nhà tôi rồi. Tôi bắt đền chị đấy!
Cô con gái kia thẹn đỏ mặt, thấy ông lão nói bắt đền thì sợ quá, mới chắp tay van rằng:
- Cháu lạy ông, cháu trót dại, xin ông tha!
- Tha thế nào được. Vía ông Thổ Công nhà tôi có phải là chuyện chơi đâu. Tôi phải đi trình làng mới được. Chị hãy đi ông Lý với tôi.
Nói rồi ông lão đứng dậy ra bộ đi thật. Chị con gái thấy thế sợ cuống, vội vàng chạy lại nắm áo ông lão mà kêu xin rằng:
- Cháu lạy ông vạn lạy, ông đừng làm thế kẻo người ta cười cháu chết.
Ông bảo cháu cái gì cháu cũng xin vâng.
Ông lão không nghe cứ làm già, chị kia năn nỉ van vỉ mãi.
Lúc đó ông lão mới bảo rằng:
- Thế thì chị phải nằm xuống để tôi thu vía ông Thổ Công nhà tôi lại.
Cô con gái túng thế phải chịu. Ông lão thu một hồi lâu, rồi tha cho cô ả về. Ông lão thì nhọc lử cò bợ, nằm thẳng cẳng như người chết rồi.
Cô ả quen mùi, trưa hôm sau lại dẫn xác đến nhà ông lão, te tái nói rằng:
- Ông ơi, cháu lại đánh rắm!
Ông lão thở không ra hơi, nằm từ hôm qua cũng chưa lại hồn.
Ông lắc đầu rồi nói:  - Chị có ị ra đấy lão cũng chịu thôi!
Và anh John xin hết chuyện. Cả làng vỗ tay rồi cười ầm lên, mãi mới thôi.
Hai cô Huế thì vỗ tay lâu nhất, miệng thì cứ xuýt xoa: sao mà chuyện Bắc kỳ hay đến thế! Chuyện kể cách đây đã hơn 80 năm mà còn hay thấm thía.
Ý thì tục, văn thì không tục mà nhẹ nhàng.
Để cho làng vãn cơn cười, ông ODP mới hỏi anh John:
- Theo anh thì câu chuyện này nói về cái gì? Anh John đáp ngay: Đây là câu chuyện ông già dê xồm, và cô gái ‘biết mùi chùi không đi’.
Ông ODP gật đầu đồng ý, rồi nói thêm: Đây là câu chuyện cổ, cụ Tốn viết cách đây 80 năm, tôi đoán chắc chuyện này đã có trong dân gian trước nữa, cụ Tốn chỉ chọn lọc rồi đăng mà thôi.
Trong chuyện này có nói đến việc đi xin lửa. Đây là một nét văn hóa nói lên đời sống làng xã Việt Nam ngày xưa. Thuở ấy, ai nấu bếp xong cũng phải giữ lửa, tức là lấy tro phủ lên lớp than hồng. Giữ lửa như vậy liên tục. Khi nào muốn nấu thì cơi lớp than này ra rồi thổi lửa lên.
Cô gái sang xin lửa tức là nhà cô gái đã vô ý để tắt bếp, đã không giữ lửa. Muốn có lửa thì phải mang cái ‘bùi nhùi’ sang xin lửa nhà bên cạnh. Ngày xưa chưa có que diêm.
Cụ B.95 nghe đến đây thì gật đầu đồng ý. Bác nói đúng quá. Ngày xưa ngoài Bắc quê tôi là như vậy đó. Con gái nấu bếp xong mà không giữ lửa là bị ăn đòn ngay.
Cô con gái trong chuyện là cô gái nấu bếp mà không giữ lửa nên phải đi xin lửa hàng xóm là thế. Tôi xin hỏi anh John câu này: Chuyện anh vừa đọc là chuyện cười đã 100 tuổi, mà còn mặn đến thế. Chuyện Canada chuyện Mỹ có mặn đến thế không?
Anh John lắc đầu: Chuyện các nước khác thua chuyện Việt Nam hết. Chứng cớ là báo Reader’s Digest, một tạp chí uy tín thế giới, có nhiều mục chuyện cười. Họ kén chọn các chuyện cười do độc giả gửi tới. Số tháng 10 này, trang 132, có đăng chuyện Vỏ Xe Hơi như sau:
Chồng tôi tích trữ vỏ xe hơi đã lâu, nay muốn tống khứ đi. Anh ấy mang hết những vỏ xe này ra trước garage, viết một tấm bảng ‘Free’ to tướng. Thế mà mấy tuần lễ qua chẳng ai thèm lấy. Chồng tôi đổi chiến thuật, anh bỏ tấm bảng ‘Free’ đi, rồi thay vào đó một tấm bảng khác, đề ‘giá $20 một cái’. Hôm trước hôm sau là bao nhiêu vỏ xe bị ‘ăn cắp’ hết.
Chuyện này được giải thưởng đấy các cụ ạ. So chuyện này với chuyện Việt Nam trên đây, các cụ nghĩ sao cơ?
Trà Lũ

* Nhà văn Trà Lũ tên thật là Trần Trung Lương. Trước tháng 4/1975, Ông là Giáo sư Anh Văn tại Đại học Sư phạm Sài gòn.

 

Đăng ngày 17 tháng 01.2022