Người về từ Cù lao Phố

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

Cô lý thốn thổ tôi ở đất Bắc, bởi cố lý nên bay về Hà Nội rồi vù vào Sài Gòn…
Lúc này đang ngồi ở quán cóc uống cà phê vợt ở công trường Duy Tân. Với cố lý thốn thổ tôi ngồi ngẫm nguội…vẽ chuyện chữ nghĩa “cố lý” là nhớ quê, “thổ” là đất, là thổ ngơi có tích này tích nọ, là động mồ động mả tới cụ Tả Ao.
Ấy là chưa kể thổ thần, thổ địa, thổ âm, thổ ngữ sẽ... thổ lộ sau.

Bèn lây dây tới đồng môn kiến trúc LTS viết bài phong thủy chữ nghiã rất trên trời dưới biển có tựa đề: Phong thủy Sài Gòn:  
“…Chuỗi đô thị theo trật tự tứ linh: Long (Hà Nội), Lân (Huế), Quy & Phụng (Sài Gòn) đều được thiết kế bởi các nhà đô thị học người Việt. Xa hơn nữa vào thế kỷ III, Loa thành 3 lớp xóay hình tròn của An Dương Vương An có thể xem như nguyên mẫu với thành hình vuông Trường An của Trung Quốc. Riêng thành hình trôn ốc của nước ta có cả về mặt lý luận, cả về mặt triết học (hòa đồng/nhất thể)…”.
Gì mà... giống nhau giữa... "hình tròn" và "hình vuông". Thêm đô thị học có "lý luận" với "triết học" hòa đồng/nhất thể nghe hãi thật. Ấy là chưa kể đọc bài phong thủy viết mù u tả con rồng... đầu chim ...đuôi rùa.
Bởi nhẽ ấy, vì rối trí tôi đóan mò... đầu rồng, đuôi rùa trấn ở Sài Gòn. Cũng phong thủy, theo đồng môn khác tên NK mà ai đấy viết đỡ rối rắm hơn:
“…Kiến trúc có cầu thang đi lên, con rùa đội trên lưng bia đá lớn. Hồ này được Huỳnh Bá Thành trong Vụ án Hồ con rùa với chuyện: "...Năm 1967 ông Thiệu cho mời một thầy phong thủy người Tàu đến coi thế đất. Với long mạch, thầy phong thủy nhìn thấy đầu rồng nằm ở dinh Độc Lập, đuôi rồng nằm tại công trường Duy Tân. Do đuôi rồng hay vùng vẫy nên sự nghiệp không bền, cần phải trấn yểm bằng cách đúc một con rùa lớn để trấn đuôi rồng không cho cục cựa. Ông Thiệu cho làm một con rùa lớn đúc bằng đồng ngay chính giữa hồ...".
Vì thế, có người cho rằng kiến trúc tháp cao giống một cây đinh khổng lồ đóng xuống lưng con rùa để giữ chặt đuôi rồng.
  
Dòm Hồ con rùa có bia đá lớn như cây đinh, tôi lụi đụi mọ mẫm về một nơi chốn cách đây hơn 200 năm qua sử sách…
Nguyễn Hữu Cảnh (1) được chúa Nguyễn Phúc Chu bổ là kinh lược sứ cai quản vùng đất mới. Ông biến vùng đất hoang sơ thành một thương cảng vào bậc nhất ở phương Nam vào thời bấy giờ. Khúc sông Đồng Nai ở Cù lao Phố từ đó được biết với tên mới: Sông Phố. Ông định cương giới, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Vì vậy có thể nói ông là người khởi đầu lập lên Sài Gòn sau này. Ông bị thổ tả rồi mất ở Rạch Gầm (Mỹ Tho), quan tài mang về quàn ở dinh Trấn Biên ở Cù lao Rùa phía nam Biên Hòa, sau đưa về chôn miền Trung, đất quê ông. Trên Cù lao Rùa cư dân đắp mộ giả, dựng tấm bia ghi công ơn vị công thần này và chúa Nguyễn phong ông là Thượng đẳng thần, là thần hòang. Tôi hình dung tấm bia cao nghệu như cây đinh khổng lồ đóng xuống lên cái mộ u lên như con rùa, nào khác gì Hô con rùa ở đằng kia là thế.
Đang vật lộn với thần hòang bản thổ đến đây, tôi ớ ra vì có ông quan văn, đeo kiếm như quan võ rách giời rơi xuống ngồi ngay trước mặt. Tôi lập bập:  
- Quan... quan...
Ông cười cái bép:
- Bản chức đã là thần hòang rồi còn quan quách gì nữa.
Nói rồi ông nhòm tựa đề bài văn khảo đang viết của cố lý thốn thổ tôi: Người về từ Cù lao Phố. Ông cười vu vơ: ”Cậu viết ký à” và dềnh dàng như quan viên đi tế...
- Cậu Ngộ Không trong Chữ nghĩa làng văn học mót nhà văn Nguyễn Tuân với chuyện muốn viết ký phải biết lịch sử và địa lý. Một ngày cậu ta hóa kiếp là… thầy tướng số xem...tướng đất với động mồ, động mả thì Sài Gòn có thế đất “hoàng xà thính cáp” tức rắn vàng rình con cóc. Qua lịch sử của ông Tây và các cụ ta xưa với thế đât này, mai kia Sài Gòn sẽ bị con rắn nuốt chửng cho mà xem.
Ông rấm rẳn "Qua lịch sử ông Tây" lập ra Sài Gòn thì thằng Tây biết khỉ gì địa lý với phong thủy. Như cậu LTS gì ấy học kiến trúc bịa tạc Loa thành 3 lớp xóay hình tròn nguyên mẫu với thành hình vuông Trường An của Tàu. Bỗng gật đầu tắp lự:
- Tên Sài Gòn đã đi vào… cổ sử, cũng… lịch sử đấy.  
 
Thế là tôi biết ngay đơ ông đây là ngài Khâm sứ (xem tr 5) đại thần Nguyễn Hữu Cảnh. Trộm thấy ông biết cụ Ngộ mà tôi lại... không biết, qua cách nói chuyện về cụ Ngộ, dường như ông khâm sứ còn biết cả địa lý với phong thủy nữa. Vì vậy tôi hỏi về "người Tàu đến dinh Độc Lập coi thế đất" là ai. Ông búng lưỡi cũng bịa tất, ấy là cụ tướng số và địa lý Ngô Hùng Diễn. Ông Thiệu mới cụ vào dinh hỏi chuyện đất nước. Vì mặt tiền dinh Độc Lập gắn cả ngàn tấm "phù diêu", phù thế như những lóng xương. Cụ dậy nước sẽ mât rất nhanh qua cuộc binh đao người chết như rạ.
Bỗng không nói chuyện binh đao, tôi ngay mặt như cán bợm bãi ra ý nghĩ đưa ông vào... Chợ Lớn, tới phố Tản Đà ăn xí quách chấm xì dầu ớt sa tế chỉ có nước quên chết, quên tấm "phù diêu" như lóng xương, quên luôn chuyện non nước mình.
Móc cái "cùi bắp" ới "xe con", tôi đưa ông tới... nơi chốn thờ cúng ông, là đình Minh Hương Gia Thạnh ở đường Trần Hưng Đạo. Làng Gia Thạnh của người Minh Hương có ngôi đình cổ nhất Sài Gòn, xây năm 1789. Trong đình, bên phải thờ Trần Thượng Xuyên, bên trái thờ Nguyễn Hữu Cảnh. Người Tàu thờ hai ông vì sau khi Trần Thượng Xuyên được chúa Nguyễn đưa vào Cù lao Phố, tiếp đến ông vào kinh lược, nhờ đó họ mới có làng Minh Hương. Năm 1775, tức sau 90 năm có mặt của hai ông, Cù lao Phố suy thóai để nhường cho Chợ Lớn, và Bến Nghé (tên của Sài Gòn) sau này.
Bởi Bến Nghé ở Chợ Quán, từ đình Minh Hương ra đường Trần Hưng Đạo, tới đường Trần Bình Trọng tôi lưỡi đá miệng: Nhà thờ Chợ Quán ở số 20 Trần Bình Trọng được xây vào năm 1674 là nhà thờ cổ nhất tại Sài Gòn và cổ nhất ở miền Nam.
 
Xe con... con cóc Renault 4CV ậm ạch như con trâu vào Sài Gòn…
Với con trâu, ông dẽ dàng vùng đất Chợ Quán thuở sơ khai nằm bên con rạch, theo Trịnh Hòai Đức, bến nước đây người Miên gọi là Kompong Krabey với Kompong là bến, Krabey là…trâu. Khởi thủy Sài Gòn chỉ là một làng Khmer nhỏ, sách Promenade dans Saigon của bà Hinda Arnold ghi vùng Chợ Quán là khu đầm ao (des Mares), có vết tích của một làng cổ người Miên (làng Nhơn Giang). Sách bà ghi chép tại đây đêm đêm cá sấu, chúng kêu văng vẳng như…nghé nên được gọi là “nghé”, kết hợp với “bến” nước thành… Bến Nghé. Năm ngày bảy tật của tôi là tật nói leo nên nói leo, tôi nghiêng về bà Hinda Arnold: Vì cá sấu ăn hết…trâu của người Miên nên nó đói, nó há mõm kêu đói ngọ nghẹ nghe như nghé ấy thôi vì vậy có ai trông thấy trâu, hay nghé đâu.
 
Làm như không nghe, ông buôn chuyện tiếp...
Sử ta lần đầu tiên nói đến Sài Gòn vào năm 1674 khi Nặc Ông anh đuổi vua Nặc Ông em tiến xuống chiếm lũy Sài Gòn. Ông em cầu cứu chúa Nguyễn đem binh đánh. Ông anh tử trận. Chúa Nguyễn phong cho ông em làm phó vương ở Sài Gòn. Doanh trại ông em ở vùng từ chùa Cây Mai tới trường đua Phú Thọ. Nhà khảo cổ Malleret cho biết cung điện này ta gọi là “Tây cung” để phân biệt với thành Sài Gòn ở Bến Nghé.

Lại vẫn cái tật đánh chết không chừa của tôi là tật nói vấy…
Tôi nói trạng tên Sài Gòn có từ thơi chúa Nguyễn năm 1674, không những thế sau này cụ Lê Quý Đôn (1726-1784) cũng gọi là Sài Gòn, cụ còn chú thích vì chữ… “gòn” Tàu không có nên các cụ nhà Nho ta vì bí chữ nên dịch bừa là… “côn”. Ông Vương Hồng Sển hú họa “côn” là cây bông gòn vì vậy mới có tên…Sài Gòn.
Làm như lãng tai không nghe, ông đơm chuyện:
Năm 1790, Gia Long ra lệnh xây cất “Thành Sài Gòn”. Người Pháp vẽ kiểu tên Oliver de Puymanuel, ông này có tên Việt là Ông Tín, xây theo kiểu Vauban: thành xây tám góc theo Bát Quái, tên chữ gọi Quy Thành. Vách cao 4m80, toàn bằng đá ong Biên Hòa kiểu “lục lăng”.
Thành Sài Gòn nắm trong 4 đường hình chữ nhật:
Phía bắc là Phan Đình Phùng (Rue Richaud) nay đổi tên là Nguyễn Đình Chiểu.
Phía nam là đường Lê Thánh Tôn (Rue d’Espagne)
Ở chính gữa là đường Thống Nhất (Boulevard Norodom)
Phía tây là  đường Công Lý (Rue Mac Mahon)
Phía đông là  đường Cường Để (Rue Rouseau)
Trong thành đặt nhà Thái miếu về bên tả, bên hữu là hành cung. Vòng ngoài thành, Gia Long ra lệnh xây nhà cho giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc hay cha Cả) để trả ơn sự giúp đỡ của ông này khi có chiến tranh với nhà Tây Sơn.
Cấu vào mắt là đường…cụ Nguyễn Đình Chiểu, tôi khoe mẽ với ông xưa kia người Pháp đặt tên là đường Mọi (Rue des Mois). “Mọi" đây là người bản xứ là người Mạ, người Stieng sống ở thung lũng Donai ở trên Biên Hoà (người Thượng). Thế kỷ 17, người Chàm, Khmer, lưu dân Việt, người Minh Hương sống lẫn lộn với họ để có giọng nói đặc thù người Sài Gòn ngày nay. Nghe rồi ông nói tôi bất thức chi vô, là chẳng biết quái gì sất: vì đường Mọi cắt ngang đường Công Lý gần cầu Mac Mahon.
 
Bởi tôi thiên bất đáo địa bất chi nên ông hay hớm thêm...   
Hồi trước bến sông Sài Gòn có chợ Vải là nơi buôn bán vải vóc để khách thương hồ theo kênh chợ Vải vào thành Sài Gòn buôn bán (chợ Bến Thành thay chợ Vải. Chợ Vải trở thành Chợ Cũ sau dọn về khu Tôn Thất Đạm). Con kênh chợ Vải được lấp đi thành đường Nguyễn Huệ. Chợ Bến Thành cũ sau khi bị phá người Pháp xây kho bạc, dưới tháp đồng hồ kho bạc là pháp trường để xử bắn người Việt ta.
Ông xa xăm, xa vắng: Giống Thăng Long thành mà ngọai thành là làng mạc, phố phường. Từ cổng thành Sài Gòn xuống bến sông Sài Gòn tức từ đường Lê Thánh Tôn xuống bến Bạch Đằng là phố phường của người Việt gồm cửa tiệm, hàng quán nằm trong bốn làng Hòa Mỹ, Tân Khai, Long Điền và Trường Hòa.
Có làng có xóm, ông thu vén: đừng quên phía sau Sài Gòn phố còn là Sài Gòn xóm. Những con xóm một thời ẩn chứa nhiều dấu tích, một phần không thể thiếu trong ký ức của người Sài Gòn xưa cỡ ông già Ba Tri như xóm Cải, xóm Đất, những cái tên nôm na, mang đầy dấu ấn xóm làng dọc sông rạch trước khi chuyển sang phố thị. Từ đó, dần dần ra đời những phố sá, ngõ ngách, nhà cửa, mồ mả ẩn khuất đâu đấy.
 
Khi không ông dẫn tôi tới phố Trần Quang Khải với sông nước…
Nơi đây là… xóm Vạn Chài. Dân câu lấy thuyền làm nhà, ăn ngủ trên sông gọi là Vạn Chài. Thuở ấy khúc sông cầu Bông nhỏ lắm vì vậy dân câu kéo lên mảnh đất (Trần Quang Khải) còn hoang sơ họp thành xóm, làng, khi đó Tân Định chưa là ngoại ô của Sài Gòn. Tôi định bộc bạch ông chả biết sông rạch gì sất. Vì một là cầu Thị Nghè 1 bắc ngang sông bên hông Sở Thú gọi là... rạch Thị Nghe. Đến đoạn cầu Bông gọi là... sông cầu Bông. Rồi chẩy  tới cầu Kiệu vẫn là... sông cầu Kiệu. Nhưng từ cầu Công Lý tới cầu Trương Minh Giảng gọi là... kinh Nhiêu Lộc. Hai là cầu Thị Nghè 2 nằm trên đường mang tên ông mà ông chả biết gì cả. Nhưng tôi chợt nghĩ đến Mai Thảo có câu thơ: “Ta thấy tên ta những bảng đường - Nhìn hình ta khuất bóng ta xa” nên thôi.

Với phố sá Sài Gòn thập niên 20, ông ngắn hai dài một, ít phố nào tráng nhựa, thường trải đá xanh. Nghe vậy, tôi đưa ông về…nhà tôi có đường Đề Thám. Năm 50 vỉa hè rộng độ tám tấc, nhưng đã lì xuống bằng với mặt đường, ô tô tha hồ leo lên, người đi bộ lắm khi phải nhẩy bổ vào nhà người ta. Theo ông Bình Nguyên Lộc qua đoạn đường đó như qua cầu đoạn trường, lên lề thì đoạn tâm, còn xuống thì đoạn cẳng.
Nhưng ít ai biết “Người đặt tên phố Sài Gòn” là Ngô Văn Phát, ông chỉ có bằng cán sự Điền địa, trưởng phòng họa đồ. Ấy vậy mà năm 1956, sau hơn ba tháng, ông trình lên Hội đồng Đô thành toàn bộ danh sách tên đường phố. Nhìn những tên đường mới thấy sự hiểu biết về lịch sử của ông, đường nào tên gì và vị trí gắn bó với nhau. Cũng gần nhà tôi: ông Nguyễn Thái Học gắn liền với Cô Giang, Cô Bắc ở chợ Cầu Muối. Hay con đường tình ta đi: đại lộ Lê Lợi nằm cận kề với đường Lê Lai, người chịu chết thay cho Lê Lợi vì đỏan thọ nên ngắn hơn và nhỏ hơn đường Lê Lợi.
 
Với việc khai phá miền Nam, ngòai chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần, có hai vị tướng đã mở mang đất đai nước ta tới tận biên giới. Hai con đường hướng về Bà Quẹo sang thẳng đất Miên qua ngả Gò Dầu, được mang tên hai vị tướng này: đó là Trương Minh Giảng và Lê Văn Duyệt.
Ông vạy vọ ai cũng biết đất Gia Định xưa lớn lắm: phía tây lan tới Cao Miên (Lộc Ninh), phía nam bao trùm cả Vũng Tàu vậy mà chỉ có 40 làng. Đột dưng tôi bị ông phay một phát vào mặt vì tôi chả biết quái gì về Cù lao Rùa, nhờ ông và người Tàu dựng lên Cù lao Rùa như một thành phố thu nhỏ: Bởi thế cũng có hai, ba phố, dăm ba tiệm mì, tiệm cao lâu. Và chả thể thiếu tiệm chạp pô, tiệm thuốc Bắc. Nói dối phải tội, ông nói gì thì nói, cái mà tôi không biết trước 75, tôi chả biết…Hiền Vương là gì? Ngòai đường Hiền Vương có… phở gà, trong bát phở có cái trứng chim cút to bằng đầu ngón tay cái.
Ông um thủm gì mà miền Nam sáng nắng chiều mưa với phở gà, trứng chim cút. Tôi to bậm ông chỉ biết ba tiệm mì nấu với xuơng heo, miền Nam của ông còn món ăn lạ lẫm lắm, người Bắc còn mê muội. Nhưng món Nam kỳ ấy lại nằm ở khúc kết.

Được thể tôi lấy ngắn nuôi dài về người Việt đầu tiên vẽ địa lý và bản đồ Sài Gòn-Gia Định. Đó là ông Trần Văn Học, người Bình Dương, giỏi Quốc ngữ, La Linh và tiếng Tây, ông được giới thiệu làm cho Nguyễn Ánh để phác họa trắc đồ theo tỷ lệ xích Sài Gòn-Gia Định thời ấy.


Bản đồ Sài Gòn-Gia Định 1815
 
Năm 1790, Nguyễn Ánh xây thành Bát Quái. Ông phụ trách “phác họa đường sá và phân khu phố phường”. Ông Học được thăng chức Cai cơ, rồi thêm chức Giám thành sứ Khâm sai Chưởng cơ, là chức lớn trong hàng tướng lãnh của thời bấy giờ.
Chợt nhớ ra người về từ Cù lao Phố "lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình", cố lý thốn thổ tôi đàm hoa lạc khứ về vùng đất được khai phá từ những ngày đầu khi lưu dân Việt đi mở đất vào cuối thế kỷ XVI.
Khi Khâm sai Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh thừa lệnh chúa Nguyễn kinh lý cương thổ ở vùng đất mới thì đất Gò Vấp đã có tên trong sổ bộ Tân Bình. Theo bản đồ Sài Gòn-Gia Định do Trần Văn Học phác họa địa danh Gò Vấp thuộc địa phận xã Hanh Thông Tây, phủ Gia Định. Bởi Gò Vấp của người về từ Cù lao Phố, thổ ngơi, thổ địa của ông có... ngã ba Chú ía, đúng ra là ngã ba chó ỉa. Từ chữ “chú”, Sài Gòn mới có thổ âm, thổ ngữ “một tiếng kêu cha, hai tiếng kêu chú”. Với địa danh Gò Vấp, người sau đặt cái cày trước mũi con trâu : “Ở đây có gò đất cao, trồng cây vấp nên mới có tên Gò Vấp. Người Gò Vấp ngày nay không ai nhìn thấy… cây vấp hình thù thế nào. Nào khác gì có ai trông thấy… con nghé ở Bến Nghé đâu?!
 
Gia dĩ là người về từ trăm năm cũ nên ông chỉ thích đào xới thổ địa...
Nhà thương Từ Dũ cất trên bãi tha ma có hằng trăm nấm mộ. Mồ mã ở Sài Gòn thân mật lắm. Người ta sinh hoạt giữa mồ mã như quen biết với ma dữ lắm (theo Bình Nguyên Lộc). Bên hông nhà thương Từ Dũ có hai ngôi mộ song hồn khá to. Trên mộ có cây mọc. Người ta treo võng dưới tàng cây và những trưa hè, người ta đong đưa kẻo kẹt trông rất an nhàn. Ngộ nghĩnh nhất là tấm bảng hiệu "hớt tóc" cắm trên mộ, cạnh chiếc võng. Khách hớt tóc cứ ra vào cái tiệm lộ thiên ấy mà không chút sợ sệt e dè.
Làm như bị ma hành sao ấy, bỗng không người trăm năm cũ ngâm nga: "Này ai ơi. Thử trèo bức tường đổ, trông quãng đồng xa, mả con mả lớn, chỗ năm chỗ bạ, chẳng quan thời dân, chẳng trẻ thời già, trước cũng người cả bây giờ đã ma. Nào tiền, nào của, nào cửa, nào nhà, nào con, nào vợ, nào lợn, nào gà, nào câu đối đỏ, nào đâu đâu cả mà nay chỉ thấy sương mù nắng rãi với mưa sa". Nghe thảm sầu gì đâu, tôi dẫu mồm hỏi ai làm thể văn biền ngẫu này nghe quá đã? Ông rề rà vậy mà tôi bày đặt dẫn ông đến đường ông... Tản Đà để ăn xí quách chấm xì dầu ớt sa tế.
 
Xe con đang trên đường rời Gò Vấp, đang lang thang như thành hòang làng khó, ông tha ma mộ địa ở Sài Gòn có nghĩa trang nào cổ lỗ không. Tôi ba điều bốn chuyện nghĩa địa Tây ở đường Mạc Đĩnh Chi dựng năm 1859. Người đã khuất kể lại một khúc lịch sử qua bia mộ: như Trung úy Francis Garnier (1873) bị quân Cờ Đen giết ở ô Cầu Giấy ngòai Bắc (xem tr.6). Nghĩa trang bị phá bỏ, nghe nghĩa địa Tây cũng không còn nữa, ông thở ra, thêm lăng Cha Cả bị rời đi, ông thở ra như tiếng thở dài vì ấy là di tích cả mấy trăn năm, người sau đi qua và nhớ lại một giai đọan của lịch sử.
Bỗng ông hỏi ở đâu có Nghĩa trang Sài Gòn? Thì chuyện cứ như thật vì có ông già Tàu đi qua nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Nếu ông này bán ve chai đồng nát hay chè chí mè phủ chả nói làm gi. Ông ta lại bán... đậu phọng rang.
Tôi bèn bật ra bài thơ rất xưa Hoa trái mùa năm 1943…
Quần chằm khiếu, áo lang thang
Trên đầu đội cái nón rách
Đi khắp quanh đường tắt
Làng trên xóm dưới reo vang
Tàu phọng rang

Liền một khi, trong đầu tôi lòi tói ra câu rao hàng: “Phá xa, húng lìu nóng ròn đây”...” của ông Tàu già ở tháp Hoà Phong gần hồ Gươm, Hà Nội. Vì đang quanh quẩn ở lăng Cha Cả, tôi nói “lái xe”... lái xe tới phi trường Tân Sơn Nhất.
Tôi thêm hai dài một: Năm 1883, Pháp cần nhiều người Nam làm thông ngôn. Sau họ họ mở quán rượu ở phố Paul Bert, quán bán “nem rán Sài Gòn” quanh hồ Gươm. Năm 1898, một số người chết vì bệnh tật không thể đưa về quê an táng. Họ lấn chiếm mảnh đất hoang ở Ô Cầu Giấy, tại đây chỉ có một tấm đồng dầy, tròn như cái mâm bị xích vào tấm bê tông và khóa lại, trên khắc tên Francis Garnier. Người Hà Nội ngày đó nghe ai nói tiếng Nam kỳ đều gọi là người Sài Gòn, nên họ gọi là Nghĩa trang Sài Gòn.
 
Máy bay đáp xuống phi trường Nội Bài. Số ruồi, phong thủy, địa lý lại bám như cua cắp ông và tôi ở Tháp Rùa. Ngồi bên hồ Gươm ăn nem rán Sài Gòn, uống bia Trúc Bạch Tôi dẫu chuyện trong tiểu thuyết lịch sử Bóng nước Hồ Gươm viết về Hà Nội cuối thế kỷ 19, nhà Nho, nhà văn Chu Thiên (Bút nghiên, Nhà nho) kể chuyện có một nhân vật là ông tú Nam kỳ người Biên Hòa, làm tri phủ một huyện ở Hưng Yên lấy cô Xuyến con gái ông bá hộ Kim, người xây Tháp Rùa ở hồ Hoàn Kiếm theo phong thủy để táng bố ông ở trên đảo rùa nhưng không thành. Hai vợ chồng ông tú giúp đỡ nghĩa quân Bãi Sậy, quân Pháp bắt hai người đem xử tử. Nhà văn Chu Thiên cho rằng: “Ông tú Nam kỳ là người đầu tiên lấy vợ Hà Nội”. Đó là... cô Tư Hồng mà cụ Nguyễn Khuyến đã đưa vào văn học: Có tàn, có tán, có hương án thờ vua, danh giá lẫy lừng băm sáu tỉnh - Nào biển, nào cờ, nào sắc phong cho cụ, chị em hồ dễ mấy lăm người
Nghe... “danh giá lẫy lừng băm sáu tỉnh“, ông thích quá thể vì có người Cù lao Phố lấy vợ Hà Nội. Tôi dón chuyện theo cụ Ngộ trong Chữ nghĩa làng văn ghi kỳ tích: Năm 54, người Hà Nội mang nem rán Sài Gòn di cư vào Nam thì ngã ngửa ra món này, gốc tích của người Sài Gòn có tên gốc là... chả giò. Ngược dòng vào năm 1883, người Sài Gòn làm thông ngôn ra Hà Nội mang món ăn Nam kỳ này mở quán ở quanh hồ Gươm, người Hà Nội ngày ấy gọi là... nem rán Sài Gòn. Hơn 60 năm sau, món này ngược về Sài Gòn với tên cố lý thốn thổ của nó là... chả giò.
 
Dòm cù lao rùa của Hà Nội hôm nay, tôi lụng bụng với người về từ trăm năm nghĩ gì về hồ con rùa ở Sài Gòn với phong thủy, địa lý Tả Ao? Thì rõ cơ khổ, ông cười khục khục mà rằng Sài Gòn mưa đấy, nắng đấy còn gì nữa chăng.
 
Thạch trúc gia trang
Canh Tý 2020
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

(1) Có thể vì kỵ húy với hòang tử Cảnh, con của Nguyễn Ánh nên Gia Định thông chí và Thự lục tiền biên của nhà Nguyễn
đổi tên Nguyễn Hữu Cảnh thành Nguyễn Hữu Kính.

Nguồn: Lý Thái Sơn, Nguyễn Kỳ, Tung Sơn, Nguyễn Đức Hiệp, Xuân Phương, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Văn Luận, Vũ Linh Châu.

 

Đăng ngày 08 tháng 06.2020